Một cửa hàng Wal-Mart tại New Jersey, Mỹ. |
Báo chí Mỹ đang nói tới “lá phiếu Wal-Mart”. Rồi nhìn từ bên ngoài, hiệu ứng Wal-Mart với thế giới đang được đề cập. Cụm từ “Wal-Mart hoá” cũng đi liền xu hướng thời thượng toàn cầu hoá.
Lá phiếu Wal-Mart
Hiện nay, Wal-Mart là doanh nghiệp có doanh số lớn nhất thế giới: con số công bố đầu năm 2006 là hơn 312 tỷ USD, có 1 triệu 800 nghìn nhân viên và 175 triệu khách hàng tại 15 quốc gia trên thế giới. Ở Mỹ, Wal-Mart có tới 3.889 cửa hàng trong tổng số 6.577 trên thế giới. Tính tới năm 2005 thì hơn phân nửa dân số của nước Mỹ đều sống gần Wal-Mart (chỉ cách cửa hàng tối đa năm dặm) và tới 90% sống trong bán kính cách Wal-Mart 15 dặm.
Hệ thống bán lẻ này ra đời năm 1962 ở tiểu bang khi đó là nghèo nhất Arkansas và lớn dần thành hệ thống bán lẻ to nhất thế giới. Sam Walton, người sáng lập ra Wal-Mart sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo năm 1918, đến năm 1998, được tạp chí Times bầu là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Bí quyết thành đạt của ông là: “Bán những sản phẩm mà thiên hạ cần mỗi ngày với giá rẻ hơn, một chút thôi, giá của mọi đối thủ và giữ giá ấy rẻ mãi mãi thì kéo được khách hàng”.
Tại Mỹ, Wal-Mart là hệ thống phân phối cho khách hàng bình dân có thu nhập chừng 45.000 USD trở xuống là những khách hàng chung thuỷ gắn bó với Wal-Mart.
Trong thực tế, Wal-Mart bị tấn công lên án từ nhiều phía vì tội bóc lột sức lao động của nhân viên do trả lương thấp, phúc lợi kém và còn đặt hàng gia công bên ngoài (để có giá rẻ) làm người Mỹ mất việc. Dù vậy, Wal-Mart vẫn cứ bán hàng rẻ hơn đối thủ và nhận được cảm tình của giới bình dân, những người Mỹ bình thường yêu đời sống gia đình. Đó là đám đông rất quan trọng trong xã hội Mỹ mà chính trị gia nào cũng muốn tranh thủ, họ đại diện cho những “lá phiếu Wal-Mart”.
Hiệu ứng Wal-Mart
Khi Wal-Mart mở ra một siêu thị (cửa hàng) mới ở đâu thì cảnh quan, quy hoạch đất đai ở đó lẫn giao thông, y tế, bảo hiểm, hưu bổng của người dân địa phương đó đều thay đổi, thậm chí đảo lộn. Thói quen tiêu thụ của dân chúng ở đó thay đổi luôn. Hơn thế nữa, Wal-Mart tác động làm thay đổi thói quen sản xuất của nhiều nước trên thế giới.
Tháng 10/2005, tổng quản lý của Wal-Mart tại Trung Quốc Lee Scott thông báo chủ trương mới của công ty về bảo vệ môi sinh: “Ai muốn cung cấp hàng hoá cho Wal-Mart thì cũng phải tuân thủ những tiêu chuẩn bảo vệ môi sinh tại Mỹ”. Thế là các hãng xưởng Trung Quốc thay đổi dần dần theo những tiêu chuẩn mới bởi vì Wal-Mart phân phối đến 15% hàng hoá xuất khẩu từ Trung Quốc và là khách hàng nhập khẩu thứ 8 của kinh tế Trung Quốc. Ngay như hãng hoá mỹ phẩm lớn của Mỹ là Procter & Gamble, khi đặt hàng sản xuất ở các nước nghèo cũng phải theo tiêu chuẩn Wal-Mart vì 20% sản phẩm của họ bán qua Wal-Mart.
Ở nhiều quốc gia, không loại trừ một nước to lớn về diện tích và dân số như Trung Quốc, hệ thống sản xuất và phân phối đều chịu “hiệu ứng Wal-Mart”, tức là phải sản xuất rẻ hơn và phải có trách nhiệm hơn với môi sinh và cộng đồng địa phương.
Ai mà có quyền lực lớn đến mức buộc Wal-Mart khổng lồ phải luôn cải tiến trong phân phối và trách nhiệm với môi trường và cộng đồng? Chính là người tiêu dùng, trước hết là người tiêu dùng Mỹ và kế đó là khách hàng ở 14 nước khác.
Wal-Mart đã đưa đơn xin vào làm ăn ở Việt Nam. Họ, nhà phân phối khổng lồ bậc nhất thế giới đang có nhiều động thái thăm dò người tiêu dùng và cả các nhà cung ứng của Việt Nam một cách bài bản. Chính họ hiểu hơn ai hết về quyền lực của khách hàng, sức ép của người tiêu thụ mà không ít doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các ông độc quyền vẫn còn ngủ yên trên những ưu thế “trời cho”.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)