Bánh khúc cô Lan từ lâu đã là một thương hiệu nổi tiếng ở Hà thành. Từ một quán nhỏ tọa lạc gần chợ Nguyễn Công Trứ, nay cửa hàng mở thêm cơ sở ở Thụy Khuê và Nguyễn Thái Học. Thương hiệu được chủ quán - cô Lan - nối nghiệp từ nghề truyền thống của mẹ, từ những năm 1960. Trong ký ức của nhiều thế hệ người dân Hà Nội từ những năm tháng chiến tranh, bao cấp tới khi hòa bình, cuộc sống ấm no, thay đổi, món bánh khúc giản dị, nóng hổi, bán nơi góc phố vẫn luôn là một đặc sản "cao hơn mâm cỗ đầy". Tiếng rao "xôi lạc bánh khúc đây" với những âm điệu đặc biệt cũng đã trở thành miền thương nhớ của bao người xa xứ.
Quán bán từ 5h tới 23h khuya, gắn bó với nhiều đối tượng khách hàng: những người lao động thức dậy sớm, các bạn học sinh sinh viên mua quà sáng, những người thích ăn vặt xế chiều hay "cú đêm" thích ăn khuya. Mùa dịch, buôn bán khó khăn nhưng cửa hàng bánh khúc cô Lan chưa bao giờ vắng khách. Khách chủ yếu mua mang đi, ít khi ăn tại chỗ, do đó, vẫn tuân thủ nguyên tắc 5K. Đây là một trong số những món ăn vặt hiếm hoi vẫn được mở cửa trong những ngày Hà Nội áp dụng chỉ thị đóng cửa hàng quán.
Trước đây, khi chưa có nhiều món ăn vặt phong phú như bây giờ, bánh khúc luôn là món ăn chơi chơi được nhiều người yêu thích và là món quà của trẻ nhỏ khi "mong mẹ về chợ". Bánh khúc hấp dẫn hơn xôi bởi có lớp nhân mằn mặn, bùi béo, ăn không ngán. Miếng bánh khúc luôn phải gói trong những chiếc lá chuối xanh mướt, thơm man mát, chấm thêm một chút muối vừng đậm đà, bùi bùi. Chiếc bánh cỡ nhỏ, không quá lớn nên ăn không bị no, chỉ đủ lưng lửng bụng, vừa ăn vừa thòm thèm.
Nhiều người phương Nam lần đầu ra Hà Nội đều có chung thắc mắc về tên gọi của món bánh đặc sản này, có người còn tự hỏi liệu có phải do bánh được cắt khúc nên mới có tên như vậy hay không. Nhưng trên thực tế, khúc là tên một loại rau, được sử dụng làm bánh, chính là thành phần "ôm lấy" nhân bánh đậu xanh và thịt mỡ bên trong.
Rau khúc thường có 2 loại là khúc tẻ và khúc nếp nhưng được chọn làm bánh phải là loại khúc nếp vì thơm hơn. Đây là loại rau mọc dại ở bờ ruộng, bãi đất vùng nông thôn. Rau khúc thường có vào dịp tiết Thanh minh - tháng 2, 3 âm lịch. Do đó, ăn bánh khúc vào thời điểm này là ngon nhất. Sau đó, rau khúc thường được phơi khô, khi chế biến thì ngâm, giã nhỏ, do đó, món ăn này mới được bán quanh năm. Nhiều nơi sử dụng lá su hào, bó xôi hoặc cải cúc thay thế nhưng không ngon bằng.
Nguyên liệu khá giống bánh chưng: gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ lợn. Rau khúc tươi được hấp lên rồi giã nhuyễn để làm vỏ bánh. Đậu xanh bỏ vỏ, ngâm nước cho bở, đồ chín rồi giã mịn. Thịt ba chỉ không được nạc quá hay mỡ quá, thái miếng vừa, ướp gia vị, hạt tiêu. Bánh được nặn gồm thịt mỡ bên trong, đậu xanh bên ngoài, rồi tới rau khúc giã nhuyễn.
Bánh được cho vào nồi, làm giống như đồ xôi, giữa một lớp bánh là gạo nếp để bánh không dính vào nhau. Trong nồi luôn được rải một lớp lá chuối cho bánh thơm đặc trưng. Diễn tả nghe đơn giản nhưng để làm thành công một mẻ bánh "10 người ăn thì 10 người khen" như bánh khúc cô Lan thì không dễ dàng.
Bánh ở quán luôn có lớp xôi dẻo, căng mẩy, ngay cả khi đã nguội bánh vẫn rất ngon, còn nếu vừa mua ở quán mang về nhà thì vẫn giữ được độ nóng bỏng tay. Bánh được gói trong lá chuối nhưng phải được rửa sạch và lau thật khô, tới mức lau bằng khăn cũng không thấy bụi bẩn. Như vậy, bánh mới đảm bảo vệ sinh và không ảnh hưởng đến chất lượng bánh bên trong. Bánh khúc "nguyên thủy" được ăn với muối vừng nhưng ngày nay, nhiều người ăn kèm với chả.
Ở mỗi cơ sở, quầy bánh chỉ vỏn vẹn 2-3 m2, thường chỉ vừa đủ để một thúng bánh và có khoảng 2 nhân viên vừa gói bánh vừa thu tiền của khách. Nhưng số nhân viên của bánh khúc cô Lan khá đông, thường có 5-6 thợ nặn bánh liên tục, người đảm nhận khâu rửa lá, lau lá riêng. Mỗi ngày, cửa hàng bán hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn chiếc bánh, bất kể đông-hè.
Bánh khúc cô Lan không chỉ chinh phục được thực khách khó tính ở Hà thành suốt nhiều thập kỷ mà còn từng được lựa chọn để phục vụ trong hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều năm 2019, giới thiệu đặc sản Việt Nam tới các phóng viên quốc tế.
Giá bánh bao năm vẫn rất rẻ, chưa tới 20.000 đồng một phần, phù hợp túi tiền người dân mùa dịch.