Trong số gần 700 trẻ vị thành niên của trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, Bộ Công an, trẻ phải học lại kiến thức cấp 1 là đông nhất. Chủ yếu chúng phải học lại từ những con chữ “a, bờ, cờ”. Thượng úy Nguyễn Thị Thủy, giáo viên cấp một là người đã nhiều năm nay gắn bó với công việc của một người dạy chữ. Quê ở Thái Bình, việc vào trường giáo dưỡng dạy học như một cơ duyên với chị Thủy.
Tốt nghiệp cử nhân sư phạm, chị mong muốn được đi dạy. Nhưng học sinh của chị ở đây thật đặc biệt, mỗi lớp khoảng 20 học sinh thuộc mọi lứa tuổi khác nhau. Những đứa trẻ hư, sống buông thả, vô tổ chức, vào đây sống theo khuôn khổ đã khó, huống chi phải tiếp thu kiến thức.
Thượng úy Thủy tâm sự, nhiều em vào trường, khi được hỏi khăng khăng nói đã học hết lớp 7. Nhưng lúc bảo viết tên mình, chúng không viết nổi. Có những em ở thành phố, cũng chưa từng cắp sách tới trường vì bố mẹ bỏ bê. Trong lớp học của thượng úy Thủy còn có cả những học sinh là người dân tộc, tiếng Kinh không biết… Nhưng bất kể ở hoàn cảnh nào, mỗi lớp học qua tay cô rèn rũa đều đọc thông viết thạo.
Thượng úy Thủy đã 10 năm bôn ba với nghề gieo chữ cho những đứa trẻ lầm lạc. |
Thời gian đầu, tiếp xúc với nhóm học sinh đặc biệt này, giữa cô và trò luôn có sự ngăn cách. Chúng sẵn có ác cảm nên không mở lòng với cô giáo. “Trong khi mình mong muốn truyền đạt kiến thức, học sinh thì không muốn tiếp thu”, cô Thủy tâm sự. Đám trẻ bị bắt buộc mà phải vào lớp học nên dù ngoan ngoãn nghe giảng, trật tự trong giờ học nhưng kiến thức mỗi ngày không được bao nhiêu.
Chị đã tìm đủ mọi cách để rút ngắn khoảng cách giữa cô và trò mà rất khó khăn. Dần dà, qua việc tiếp xúc với từng em, khơi gợi, hỏi han để chúng nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình, chị đã thành công. Chị luôn tự nhủ, trong thời gian ít ỏi ở trường, nếu chúng không có được chút kiến thức cho hành trang vào đời sau này, chị thấy rất có lỗi. “Nhiều khi tôi nghĩ, làm giáo viên ở trường giáo dưỡng ngoài làm hết lương tâm trách nhiệm, còn phải làm tốt vai trò của nhà tâm lý, người thuyết phục”, thượng úy Thủy cười tươi.
Trong số những học trò của mình, chị Thủy bảo không bao giờ quên cậu học trò người H’mông Vàng Mí Lử. Nhắc đến cậu học sinh vào trường vì hay trộm cắp vặt này, thượng úy Thủy ứa nước mắt. Lử không biết tiếng phổ thông nên giao tiếp phải nhờ một “thông ngôn” người dân tộc khác.
Khi đã bập bẹ nói được dăm câu tiếng Kinh, một lần chị bảo Lử viết một vài chữ trên bảng, anh ta ôm mặt khóc “tao nhớ vợ con, không học cái chữ của mày đâu”. Lúc ấy, chị giận lắm nhưng rồi cũng phải nịnh Lử đến khi anh ta cầm bút viết. Lử viết chữ nào, người uốn éo theo chữ đó. Chị phải giao nhiệm vụ đón con cho chồng để có thời gian dạy dỗ cho Lử ngoài giờ.
Sau 2 năm ở trường, trước ngày về, chị có hỏi Lử về ước mơ. Lử bảo: “Ước về chăn bò, khi nào bò đẻ con sẽ đem về tặng cô giáo” khiến chị ứa nước mắt. Ngày hôm đó, Lử còn vừa cầm tay cô giáo vừa hát một bài bằng tiếng H’mông. Mới đó, đã gần 2 năm trôi qua, chưa có “con bò nào xuất hiện” nhưng năm nào Lử cũng viết thư về chúc Tết cô Thủy. Lử có kể với cô là đã đọc được truyện trong sách học của con.
Hà Văn Xôm cũng là một học sinh chị phải bỏ nhiều công sức nhất để dạy dỗ. Xôm, quê ở Hà Giang, vào trường giáo dưỡng khi đã có vợ, con trai mới chào đời. Nhiều ngày liền, hễ cô giáo phát vở, Xôm đứng vụt dậy ném sách vào người cô, rồi đòi về vì nhớ con. Chị gặng hỏi nhiều lần, Xôm chỉ lặng thinh, khoanh tay nhìn lên bảng. Có lúc chị đã cảm thấy bất lực trước học sinh này.
Chị đã mượn hồ sơ về Xôm rồi tiếp cận, gợi chuyện gia đình. Lúc ấy, Xôm thấy cô “công an” không đáng sợ như đã nghĩ nên nói “tao phải về trả thù thôi, cô giáo đừng bắt tao học chữ”. Tìm hiểu, thượng úy Thủy mới biết, gần một năm trời, Xôm không học, trong đầu chỉ nung nấu trả thù vì anh ta cho rằng người hàng xóm đã hãm hại. Nhưng rồi, 9 tháng còn lại trong trường, qua bàn tay của cô Thủy, Xôm đã học xong lớp 1, lớp 2 và ngày nghỉ nào cũng lên thư viện trường đọc sách.
Việt Dũng