Tác phẩm điện ảnh của đạo diễn Justine Triet mở đầu bằng một buổi phỏng vấn giữa sinh viên Văn học và nhà văn Sandra Voyter (Sandra Huller đóng), đồng thời cũng là nhân vật chính của phim, về những cuốn sách của cô. Trong buổi phỏng vấn hỗn loạn và kỳ lạ đó, nữ sinh viên ấy nói rằng vì thể loại Sandra theo đuổi là autofiction (bán tự truyện) nên người đọc luôn muốn biết đâu là sự thật và đâu là hư cấu. Như khi một tác phẩm được dán nhãn "dựa trên câu chuyện có thật", khán giả trước hết sẽ luôn muốn tìm hiểu xem câu chuyện có thật ấy là gì.
Câu thoại lẫn buổi phỏng vấn đó dường như đã mào đầu rằng sẽ chẳng có sự thật cuối cùng nào được lật mở, bởi ranh giới giữa sự thật và hư cấu trong một tác phẩm bán tự truyện là hết sức phức tạp và mong manh. Liệu Sandra Voyter có giết chồng không? Nếu có thì tại sao phim chẳng có nổi một phân đoạn flashback hay bất kỳ dấu hiệu nào? Nếu không thì người chồng đã làm thế nào mà bỏ mạng? Tất cả đều là những câu hỏi không lời giải đáp.
Những sự sụp đổ
Như ta đã biết, tòa án là một cơ quan quyền lực xét xử, và mục đích một phiên tòa chính là đưa ra kết luận cuối cùng: Ai là người có tội?
Được cấu trúc như một courtroom drama (trinh thám hình sự), Kỳ án trên đồi tuyết báo hiệu với khán giả "hành trình tìm kiếm sự thật" của mình. Nhưng Justine Triet đã khiến bộ phim của mình đi xa hơn, thậm chí là lật đổ, thách thức những gì được xem là "kết luận cuối cùng".
Dù vận dụng motif hình sự, quá trình điều tra về cái chết người chồng càng lúc càng trở nên rối rắm, mâu thuẫn với nhau mà chẳng có khe hở nào để bám vào. Lời khai của cậu bé, nhân chứng duy nhất vụ án, ban đầu rất chắc chắn nhưng lúc sau lại càng lung lay đến mức cậu nghĩ rằng mình đã lầm. Những nút thắt tưởng chừng sẽ được hé mở dần, nhưng cuối cùng lại chỉ càng khóa chặt hơn, không còn giống phim trinh thám thông thường nữa.
Trong phiên tòa xét xử Sandra, tưởng chừng khán giả sẽ được xem màn đối đầu căng thẳng với những bằng chứng và lý lẽ đầy thuyết phục đối chọi nhau và sáng tỏ thêm điều gì, thì mọi thứ lại trở nên mù mờ. Lý lẽ của công tố viên trông có vẻ đầy thuyết phục và từng bước áp đảo phía Sandra, nhưng cuối cùng anh ta lại mắc lỗi sai nghiêm trọng khi dựa vào tâm lý nhân vật trong một cuốn sách của Sandra để buộc tội cô giết chồng. Lỗi sai này khiến anh tự phá bỏ mọi lập luận của mình, dù thể loại Sandra viết có là autofiction đi chăng nữa. Liên kết điều này với cuộc phỏng vấn ở đầu phim, ta có thể thấy sự thiếu nền tảng về lý luận nghệ thuật của đại chúng đã khiến họ chăm chăm vào phần sự thật mà quên đi tính hư cấu trong văn học. Việc dùng văn chương để buộc tội người khác vừa là sự sụp đổ của vị công tố về mặt logic, vừa là sụp đổ trong cách nhìn nhận, đối xử của con người với một tác phẩm văn học.
Một điểm nổi bật khác trong Kỳ án trên đồi tuyết nằm ở việc nó làm giảm đi sự quan trọng của một sự thật cuối cùng. Ở đoạn cuối, khi tòa án có được một kết luận, tưởng sẽ được thanh thản, nào ngờ Sandra thổ lộ với luật sư của mình đại ý rằng cô cảm thấy chưa thỏa mãn vì có lẽ cô đã mong đợi nhiều hơn ở một điều gì đó mà bản thân cô cũng không thể xác định được.
Cái cảm giác không thỏa mãn ấy dường như muốn nói lên rằng đôi khi một sự thật, một kết luận lý tính không vừa khít với chiều sâu vô đáy của tâm hồn. Dù Sandra vô tội hay có tội, những vấn đề trong cuộc sống giữa vợ chồng vẫn chưa được giải quyết, những mâu thuẫn chưa được hòa giải. Phiên tòa có thể dừng lại ở một khoảng thời gian nhất định nhưng cuộc sống con người thì không. Còn những vấn đề nhức nhối, con người ta sẽ tiếp tục nghĩ về nó, suy tư về nó để thỏa mãn chính mình.
Đằng sau công việc viết lách
Trong Kỳ án trên đồi tuyết, đạo diễn Justine Triet không chỉ nói lên bản chất văn chương mà còn là bản chất công việc tạo nên nó - những việc sau hậu trường, hầu như diễn ra trong tâm trí nhà văn mà chúng ta khó có thể nhận ra.
Điều này có thể nhận thấy trong mối quan hệ giữa Sandra và người chồng Samuel. Cả hai đều là nhà văn. Vì vừa là vợ chồng, Sandra và Samuel vừa là đồng nghiệp của nhau và bằng một cách nào đó, họ có thể xem như là đối thủ của nhau. Việc một người đã thành danh, trong khi người còn lại vẫn luôn chật vật dẫu có năng lực cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của quan hệ vợ chồng.
Trong đoạn băng ghi lại cuộc tranh cãi gay gắt giữa Sandra và Samuel, người chồng trong cơn gắt gỏng đã buộc tội vợ đánh cắp ý tưởng viết văn của mình. Đó là một ý tưởng mà Samuel cố gắng phát triển nhưng không thành công nên Sandra xin phép anh được sử dụng nó và oái oăm thay, cô lại triển khai nó mượt mà hơn chồng. Có thể thấy nhiều trường hợp cùng một ý tưởng, thậm chí là cùng một câu chuyện, nhưng nhà văn nào có tư duy tốt hơn sẽ khiến câu chuyện ấy được bung tỏa hết vẻ đẹp của nó và ngược lại.
Thành công của Sandra trong việc mài sáng ý tưởng của chồng càng xoáy sâu hơn vào nỗi bất lực trong Samuel: anh vừa mặc cảm trước tài năng của vợ, vừa bất lực trước những trang viết chưa đi đến đâu của mình. Cũng trong đoạn băng đó, Samuel nói rằng việc chăm lo con trai sau tai nạn khiến cậu bé mù lòa đã khiến anh không thể an tâm theo đuổi sự nghiệp. Liệu đây là một kiểu bi kịch bị thực tại tàn nhẫn "ghì sát đất" hay là lời biện hộ cho sự bất lực trong Samuel? Khán giả xem phim sẽ có được kiến giải của riêng mình.
Một điểm nổi bật ở Kỳ án trên đồi tuyết nằm ở việc phim đã xây dựng nhân vật Samuel ở trạng thái "đang trở thành", với manh mối là tất cả những tư liệu về cuộc đời anh thông qua lời kể và những hình ảnh sót lại. Điều này tạo cho người xem cảm giác về quá trình sáng tạo của nhà văn: họ góp nhặt tất cả những gì của đời sống để hư cấu nên một nhân vật vừa mang đầy đủ đặc điểm nhưng cũng vừa tách biệt với con người ngoài thực tại. Đồng thời, việc Samuel mãi là mảnh ghép không hoàn chỉnh cũng gắn liền hoàn cảnh của anh: mãi vật lộn trong những con chữ chưa thành hình.
Kỳ án trên đồi tuyết, tựu chung, là hành trình đầy căng thẳng mà sự thật không phải đích đến cuối cùng, và nếu có cũng không thể thỏa mãn được con người. Văn chương hay điện ảnh không sinh ra để đề ra cho người ta một giải pháp, một vạch đích cụ thể. Nó cần ta nghiêm túc bổ sung vào những gì còn dang dở, cần ta điềm tĩnh nhìn sâu vào những vấn đề chưa có lời giải, từ đó đối diện những gì trần trụi nhất với chính mình. Lời khai của người con trai ở phân đoạn gần cuối phim cũng chỉ là một lời phỏng đoán về chân dung bố mình. Con người ấy rốt cuộc như thế nào? Lý do vì sao anh ta chết? Người xem sẽ tranh cãi về nó như cách những con người trong tòa án liên tục phản biện nhau để tìm kiếm một kết luận.
Gợi nên những suy tư, đối thoại không ngừng, chính là cách một tác phẩm nghệ thuật được sống, và tồn tại.
Lê Hồ Nam