Bao năm qua ông Lê Văn Nuôi (sinh năm 1954) vẫn sống thầm lặng ở căn nhà nhỏ ở thôn La Trung, xã Điện Thọ (huyện Điện Bàn, Quảng Nam). Người cựu binh tuy đã bước qua tuổi 60, nhưng trông ông trẻ hơn tuổi.
Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, có ba anh em, mồ côi cha từ nhỏ, hai người anh chị của ông sớm đi theo cách mạng. Một mình ông sống cùng mẹ trong ngôi nhà nhỏ. Lúc này, gia đình ông là một trong những cơ sở nuôi giấu cán bộ trong vùng. Chính vì vậy, mẹ ông cũng từng bị địch bắt và tra tấn.
Chứng kiến những tên địch hung hãn, gây tội ác tày đình với người dân nên từ khi lên 10 tuổi, cậu bé Nuôi đã gia nhập vào đội thiếu niên hoạt động du kích mật trên địa bàn. Nuôi trở thành Đội trưởng đội du kích, làm nhiệm vụ trinh thám tình hình quân địch, cung cấp thông tin cho cách mạng.
Tuổi còn nhỏ nhưng với quyết tâm và sự nung nấu đánh giặc cứu nước, ông đã cùng anh em lên đường ra tiền tuyến. Là người thông minh, gan dạ nên ông được bầu làm Đội trưởng đội Đặc công. Sau nhiều trận đánh ác liệt, quân ta tiêu diệt nhiều tên địch khiến chúng không khỏi bàng hoàng nhưng cũng hết sức điên cuồng. Thời điểm này, tên tuổi Đội trưởng đội Đặc công Lê Văn Nuôi đã rơi vào tầm ngắm của địch. Chúng tìm mọi cách, mở nhiều cuộc truy lùng ráo riết, treo giải thưởng cao cho những ai bắt được ông.
Trong một lần đang cùng đoàn quân tham gia một trận đánh thì bị địch bao vậy, ông mưu trí mở đường cho đồng đội chạy thoát, nhưng riêng ông thì bị địch bắt. Chúng ra sức tra tấn, đánh đập dã man, hòng moi được những tin tức từ ông nhưng người chiến sĩ đặc công không hé răng nửa lời.
Ngồi trong tù, chịu đựng những trận đòn roi tra tấn của địch, kế hoạch vượt ngục được ông vạch ra trong đầu. Sau nhiều ngày dự tính kỹ lưỡng, ông mới bắt đầu hành động một mình vì sợ lộ.
Qua được lớp hàng rào thứ nhất, thân thể ông trầy xước vì thép gai cào xé trên da thịt, những vết thương do địch tra tấn bắt đầu mưng mủ. Sau khi ẩn nấp mấy đêm, ông vượt qua cả 5 lớp hàng rào rồi ngất lịm, may mắn được một chiến sĩ quân ta phát hiện ra.
Sự trở về của ông Lê Văn Nuôi khiến đồng đội vô cùng kinh ngạc. Khi ông bị bắt, họ đều đinh ninh rằng một khi đã rơi vào tay giặc, ông sẽ không thoát khỏi cái chết. Sau khi được chữa trị, những vết thương bắt đầu lành lại, ông trở lại nhiệm vụ chiến đấu.
Tháng 6/1971, trong một lần chỉ huy đoàn quân vượt qua bãi đất trống, ông không may giẫm phải mìn của quân địch đã gài sẵn và bị thương phải cắt bỏ một chân. Đúng lúc đó, căn bệnh nhiễm trùng uốn ván trong điều kiện thuốc men khó khăn đã gần như vắt kiệt sức lực của ông. Bốn người đồng đội lần lượt hy sinh, ông là người thứ năm đã được khiêng xuống huyệt mộ. Khi vừa để ông xuống, các đồng đội chợt nhìn thấy ông còn thoi thóp, sờ lên người vẫn còn hơi ấm. Hy vọng phép màu sẽ đến, họ quyết định không lấp đất lại, mà dùng lá chuối phủ lên trên người ông.
Sau đó, một y tá được cử tới xem tình hình, phát hiện ông vẫn còn sống, nên đã tiêm một liều thuốc cho ông. Vì chứng nhiễm trùng với thương hàn nặng khiến thân thể ông bị co rút, miệng muốn nói nhưng không thể cất lời.
Cứ như vậy, ngày này sang ngày khác, người y tá vẫn đều đặn tiêm cho ông một liều thuốc mỗi ngày. Đến ngày thứ bảy, chân tay ông bắt đầu cử động, miệng đã lắp bắp nói được thành tiếng, thấy người y tá ông vội mở lời chào. Chứng kiến cảnh ấy, người y tá hoảng hốt gọi những đồng đội tới khiêng ông lên. Người y tá lúc này mới bảo, ông là người duy nhất bị bệnh thương hàn nặng có thể sống sót.
Kể đến đây, ông cười vui vẻ bảo: "Chuyện tôi chết đi sống lại đúng là khó tin. Sau này, khi kể với nhiều người, họ bảo tôi nói dối, chỉ đến khi một trong những người y tá chăm sóc cho tôi lúc ấy kể lại, mọi người mới tin đó là sự thật. Có lẽ mình chưa tới số chết, vì nhiều lần tôi từng nghĩ khó có thể vượt qua được những cửa ải đó. Dường như có bàn tay nào đó nâng đỡ để tôi có thể sống sót đến ngày hôm nay".
Sau 7 ngày nằm dưới huyệt mộ chiến đấu với tử thần giành giật sự sống, ông được mọi người đưa tới trạm xá Điện Bàn tiếp tục chữa trị vết thương. Tại đây, câu chuyện ly kỳ về việc chết đi sống lại của người đội trưởng đội đặc công được lan truyền như một huyền thoại. Đánh hơi được sự trở lại của ông, địch mở cuộc truy quét và bao vây trạm xá Điện Bàn. Rơi vào tình trạng cô lập hoàn toàn, ông và những thương binh phải nằm dưới hầm nhiều ngày không cơm nước, không giặt giũ, thuốc thang.
Vừa qua cơn thập tử nhất sinh lại bị bao vây bởi bọn địch hung hãn, ông nghĩ điều kỳ diệu sẽ không đến với mình lần nữa. Bị giam cầm trong hầm tối, không được ăn không uống, thân thể ông gần như kiệt quệ.
Vuốt lên mái tóc hoa râm, ông nhớ lại: "Lúc bấy giờ, tôi cứ nghĩ, lần này nếu địch không bắt thì tôi cũng chết, nếu bắt cũng chết. Nhịn mấy ngày đói meo, chỉ đến đêm tôi mới nằm mơ thấy mình được ngồi ăn ở một bàn tiệc và tắm giặt thỏa thích, nhưng khi tỉnh dậy mới biết tất cả đều là mơ". Vết thương băng bó lâu ngày không được thay, bị hoại tử dần, giòi bám lên khắp cơ thể, mùi hôi thối xông lên nồng nặc khắp căn hầm.
Bao vây đến ngày thứ 7, địch tìm được ông và đem về giam tại nhà tù Non Nước. Lần này, chúng tiếp tục di chuyển ra nhà giam tại đảo Phú Quốc, cho đến năm 1973 ông mới được trả tự do.
Trở về sau cuộc chiến, với một phần thân thể gửi lại chiến trường, tìm lại người mẹ già, nhưng lúc này ông mới hay tin mẹ ông cũng vừa mới từ trại giam trở về. Một người anh, người chị của ông cũng đã hy sinh.
Căn nhà của gia đình xưa đã không còn. Từ nền đất cũ, mái tranh xiêu vẹo trở thành ngôi nhà tạm bợ cho hai mẹ con nương tựa vào nhau. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, từ một người thiếu niên tham gia chiến đấu, nay trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, cuộc sống của ông vô cùng khó khăn.
Với số tiền trợ cấp ít ỏi và sáu tháng gạo, ông dành dụm mua lại mấy tấm tôn cũ che tạm lên ngôi nhà đã dột nát và sắm thêm một số vật dụng cần thiết. Để chiến đấu với cái đói, cái khổ, ông mạnh dạn tìm cách đứng ra vay vốn làm ăn. Đó cũng là cơ duyên đưa ông đến với con đường trở thành chủ trang trại lớn nhất vùng.
Khoảng vườn nhà ông rộng lớn, với diện tích hơn một hecta đất dùng đào ao nuôi cá, mỗi năm cho thu hoạch hàng trăm triệu đồng. Ngoài việc thả cá, ông còn mạnh dạn đầu tư nuôi chim yến. Đây được xem là mô hình nuôi yến đầu tiên trên địa bàn. Không chỉ vậy, ông còn là một trong những người cán bộ mẫu mực, từng giúp đỡ nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những người lầm đường lạc lối và hỗ trợ họ trong phát triển kinh tế.
Ông Nguyễn Sơn, Trưởng thôn La Trung, xã Điện Thọ cho biết, ông Nuôi là người cựu chiến binh từng được 12 lần nhận danh hiệu dũng sĩ. Hiện nay, ông là Chi hội trưởng hội Cựu chiến binh xã Điện Thọ và là gương kinh tế tiêu biểu nhất trong vùng.
Theo Đời Sống Pháp Luật