Nàng nói là nàng không thích hoa hồng, mà cũng chả thiết chocolate... Gã chẳng biết làm thế nào, đành rắp tâm tìm cách đem nụ cười tặng nàng vậy.
Scorpio
Một ý nghĩ kỳ quái đến trong đầu, vậy là gã gom hết cái đống lổn nhổn mà gã học "bồi" được, gồm cả Liêu trai chí dị, Kinh thư, Phật pháp, Mật tông, Phong thủy, văn phong của Kim Dung lão sư phụ, Kinh Bích lão yêu... làm thành một món "lẩu thập cẩm" (rẻ tiền) gọi là "mua vui". Các bậc cổ nhân thấy đệ tử kiến thức nông cạn mà mạnh mồm tán láo thì cũng xin mở lượng hải hà. Cái thằng ấy đang yêu, "coi trời bằng vung", chấp làm gì!
Chuyện xảy ra đã hơn 500 năm trước ở một làng nọ có tên là làng Ngọc, thuộc địa phận nước Nam. Trong làng có vợ chồng ông đồ Hoàng. Hoàng lão nhân trước vốn là người học rộng, tài cao, từng làm đến chức Ngự sử trong triều. Khi họ Hồ cướp ngôi, chính sự nhiễu loạn, ông cáo quan về ở ẩn, trở thành ông đồ Hoàng. Hai vợ chồng ông đều là người thiện lương, ăn ở tình nghĩa nên được làng trên xóm dưới rất mực yêu mến, chỉ hiềm một nỗi hiếm muộn mặt con.
Hoàng lão nhân tóc đã điểm bạc mà bà Hoàng vẫn chưa cho ông một mụn con nối dõi. Ông Hoàng rất lấy làm phiền muộn, nhưng vẫn gắng an ủi bà Hoàng: "Vợ chồng mình cứ cố gắng tu nhân tích đức. Ông trời có mắt, chắc sẽ không phụ lòng người có tâm".
Một đêm mưa to gió lớn, nước ngập trắng sân, xâm xấp lên tận thềm nhà. Bà Hoàng mơ thấy có con cá chép vảy vàng lấp lánh, quẫy nước sà vào lòng bà. Đêm ấy, Hoàng lão bá cũng vừa xơi món lẩu cá lóc, bỗng nhiên thấy sức lực cường tráng như thuở tráng niên, liền hăm hở tiến về trai phòng...
Chẳng bao lâu bà Hoàng thụ thai... Hoàng lão nhân nghe vợ kể, mừng lắm, bèn nói: "Mơ thấy cá chép là quý tử đó, chỉ cần có mưa lớn là sẽ hoá rồng".
Đủ năm đủ tháng, bà Hoàng quả nhiên sinh một cậu con trai bụ bẫm, khoẻ mạnh. Ông đồ Hoàng cả mừng, mới đặt tên con trai là Vũ. Bà con họ hàng đều mừng rỡ, làng trên xóm dưới lũ lượt kéo đến Hoàng gia trang chúc tụng đến mấy ngày, mấy đêm mới dứt.
Hoàng Vũ càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, mi thanh, mục tú, tướng mạo hiên ngang. Da trắng, môi đỏ, tay dài quá gối, quả nhiên là quý tướng. Hơn nữa, Vũ từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ hơn người. Năm 4 tuổi đã thuộc lòng Tam tự kinh. Năm 6 tuổi Vũ đã được Hoàng sư phụ đã truyền dạy Tứ thư, Ngũ kinh. Lên 8 tuổi đã biết đọc Chu dịch, hiểu được "Hà đồ, Lạc thư". 13 tuổi, Vũ đã biết bày trận Bát quái, thuộc làu làu "Thiên tinh, quái tượng", Ngũ hành tương sinh, Ngũ hành tương khắc, không gì là không thông, không gì là không biết. Năm 15 tuổi, Hoàng Vũ nổi tiếng khắp một vùng, hiểu đến cả binh pháp của Tôn Tử và Quỷ Cốc tiên sinh thời Chiến quốc.
Bữa nọ, có một vị cao tăng vân du qua làng Ngọc. Ông khoác chiếc cà sa cũ bạc màu, lưng đeo tay nải cói sờn rách. Vị sư râu tóc bạc trắng, nhưng khuôn mặt hiền hoà, phong thái tiêu diêu, quả nhiên có phần tiên phong đạo cốt. Khi đi ngang qua Hoàng gia trang, thấy Hoàng Vũ đang ngồi nghiêm trang đọc Kinh thư, ông chăm chú quan sát hồi lâu rồi mới lắc đầu nuối tiếc: "Anh hoa phát tiết ra ngoài... Con người đoạt hết mọi ưu ái của tạo hoá thế kia, tránh sao khỏi mệnh yểu!" Nói đoạn thở dài bỏ đi, hướng về phía Tây biệt tích.
Hoàng lão nhân nghe gia nhân báo lại, cho là xằng bậy, không để ý đến. Ai dè ba ngày sau Hoàng Vũ thốt nhiên đổ bệnh. Đầu đau như có trống đánh, toàn thân nóng như có kiến đốt. Không ăn, không uống, không ngủ, suốt 3 ngày 3 đêm. Hơi thở thoi thóp. Thật là thập phần nguy kịch.
Hoàng lão nhân lúc đó mới cả kinh, vội vàng đích thân đánh xe đuổi theo hướng vị cao tăng nọ. Chạy suốt một ngày một đêm mới bắt kịp. Lão Hoàng phủ phục cúi lạy vị cao tăng xin cứu mạng cho Hoàng Vũ. Lão tăng mới ôn tồn chắp tay nói:
- A di đà phật! Bần tăng pháp danh Khổ Đức, vốn quen vân du bốn biển, cứu khổ độ thế. Hoàng công tử anh hoa đoạt cả tạo hoá, dương mệnh đã tận, đáng ra bần tăng chẳng dám cưỡng lại thiên cơ. Nhưng thấy thí chủ ăn ở nhân đức, lại thấy bần tăng cũng có chút duyên với công tử, nên đành cố gắng một phen vậy.
Về đến Hoàng gia, Khổ Đức mới sai người dọn sạch khoảng sân trước sảnh đường, bày đủ Tiên thiên trận đồ - Đơn vạch, Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái, Sáu mươi tư quẻ, Ba trăm tám mươi tư hào. Đoạn mới ẵm Hoàng Vũ đặt ở giữa trung tâm trận đồ, bắt đầu cầu sao giải hạn...
Sau ba ngày, Khổ Đức lão sư sinh lực có vẻ suy giảm, làn da từ hồng hào chuyển sang xanh mét như tàu lá. Ngược lại, nét mặt Hoàng Vũ ngày càng lộ sinh khí. Chữa trị đến ngày thứ 7 thì Hoàng Vũ đã hoàn toàn bình phục. Ông bà Hoàng mừng lắm, cảm kích thiền sư khôn xiết. Khổ Đức ôn tồn đáp lễ, đoạn từ tạ lên đường. Hoàng lão nhân bấy giờ mới phục lạy mà thưa:
- Đa tạ đại sư! Đại sư vì cứu mạng Hoàng nhi mà hao tổn tâm lực, dương thọ mất đến mấy phần. Nay xin ân công cho Hoàng nhi đi theo hầu hạ dọc đường, gọi là chút tình báo đáp ơn cứu mạng!
Khổ Đức từ chối năm lần bảy lượt không được. Hoàng Vũ cũng ra phủ phục cầu xin. Cuối cùng, vị khổ tăng cũng đành thở dài gật đầu chấp thuận:
- A di đà phật! Cũng là do lão nạp và thí chủ có chút duyên với nhau vậy!
Năm ấy Vũ mười lăm tuổi... Suốt 10 năm, Vũ theo vị cao tăng đi chu du 4 biển. Dọc đường Vũ chăm sóc, phục dịch Khổ Đức rất mực chu đáo, thực là thập phần hiếu thuận. Lúc rảnh rỗi, Vũ theo thiền sư học cách bốc thuốc chữa bệnh, cứu nhân độ thế. Vũ cũng được nghe Khổ Đức giảng giải Kinh phật, đọc sách Thiền tông. Vốn đầu óc thông tuệ, lại có hạnh ngộ nên đạo hạnh của Vũ tăng tiến vượt bực. Khổ Đức lấy làm hài lòng lắm. Ông đích thân xuống tóc cho Vũ, đặt pháp danh là Khổ Duyên. Ý tứ của chữ Duyên, có lẽ chỉ lão sư mới hiểu hết được...
***
Một bữa nọ, hai thầy trò đi ngang qua một làng ven sông. Khi ấy đã là cuối thu, những khóm cúc dại nở vàng dọc bờ sông và lối đi hai bên đường. Mặt trời đỏ ối xiêu xiêu trôi dần về phía Tây. Ánh hoàng hôn hắt lên hơi sương bảng lảng trên mặt nước và khói lam chiều trên những mái bếp lợp rạ. Khổ Đức lão sư thốt nhiên chỉ tay về phía xa xa:
- Phong cảnh yên bình thế này, cớ sao phía kia lại có vài phần hắc khí? Khổ Duyên, ta và con thử qua xem có giúp được gì người ở đó chăng...
Vũ gật đầu vâng lời. Hai thầy trò bèn quảy quả đi vào trong thôn.
Vừa đến đầu thôn đã nghe tiếng khóc nỉ non, sầu não. Men theo tiếng khóc, hai người đến một toà gia trang rộng lớn, nhiều người mặt mũi lo lắng đang vào ra hối hả. Hai thầy trò bèn tìm gặp trang chủ để hỏi han cơ sự.
Nguyên toà nhà này thuộc về Lưu gia, vốn là gia trang giàu có nhất trong vùng. Lưu trang chủ vốn là người nhân nghĩa, mỗi lần mùa màng thất bát hoặc lũ lụt ông đều mở kho cứu tế cho dân chúng, ân đức vang dội khắp một vùng. Lưu trang chủ có bốn người con, nhưng riêng cô con gái thứ hai tên là Lưu Vân được ông yêu thương rất mực.
Lưu Vân phong thái đài các, dáng đi uyển chuyển như nước chảy, mây bay. Đôi mắt nàng sáng như ánh sao ngày Hạ chí, tóc nàng đen mượt như gỗ mun đình làng, miệng cười tươi như hoa hàm tiếu. Chẳng những dung nhan tuyệt mỹ, thạo nghề nữ công gia chánh, mà tài thi phú của Lưu tiểu thư lại càng không ai sánh bằng. Mỗi đợt Xuân về, dân chúng trong vùng lũ lượt kéo đến Lưu gia trang xin Lưu tiểu thư viết chữ và câu đối. Lưu Vân ngồi sau bình phong, bày mực Tàu giấy đỏ, vung tay thảo chữ như phượng múa rồng bay. Quả thật là thần thơ, thánh chữ, tài hoa một đời.
Cách đây không lâu, Lưu Vân bỗng nhiên đổ bệnh. Căn bệnh kì dị làm nàng ngày càng gầy yếu, xanh xao, chân tay lạnh cóng. Các danh y trong vùng được Lưu trang chủ mời về nhưng đều bó tay thúc thủ. Đến hôm nay thì hơi thở của Lưu tiểu thư đã mỏng lắm, xem ra chẳng còn cầm cự được bao lâu. Lưu gia thảy đều đau xót, tiếng khóc như ri. Những người vào ra hối hả, phần thì lo việc chạy chữa, phần thì đã lo chuẩn bị hậu sự.
Lưu trang chủ nghe báo có cao nhân từ phương Bắc đến, lật đật chạy ra tiếp đón, đoạn đưa lão sư vào thăm bệnh cho Lưu Vân. Khổ Đức bắt mạch xong, hỏi han ngày tháng năm sinh, lại bước ra ngoài trái hiên ngắm nghía địa thế, nét mặt lộ vẻ đăm chiêu. Một hồi lâu, ông mới vời Lưu trang chủ và Hoàng Vũ lại gần chậm rãi nói:
- Lưu tiểu thư vốn là nữ tử, mệnh quái thuộc Khôn, vốn là mệnh Âm thổ. Tiểu thư lại tài hoa hơn đời nên càng thuần âm. Khuê phòng của tiểu thư toạ hướng Tây Nam, cửa chính mở về Đông Bắc, nên trạch quái cũng thuộc Khôn trạch. Mệnh quái và trạch quái cùng thuộc Khôn nên âm khí rất lớn, thực là chí hung. Tiểu thư sinh trưởng ở đây từ bé lên hàn khí đã dần ngấm vào đến lục phủ ngũ tạng.
Khổ Đức lại chỉ tay ra khoảng sân trước nhà tiếp lời:
- Phía Đông của gia trạch trang chủ lại để một cây to mọc ngay trước sân. Tiểu thư mệnh Thổ, cây lớn thuộc Mộc. Mộc vốn khắc Thổ, nên thực là bất lợi. Lại thêm cái cây kia hình thù kỳ di, cổ quái, cành lá xum xuê, dây leo um tùm. Một phần sẽ che bớt dương khí nhận được từ phương Đông, một phần thành nơi trú ngụ, ấn náu của âm linh, quấy nhiễu gia trạch.
Lưu trang chủ nghe nói thất sắc, quỳ sụp xuống trước mặt lão sư, van xin Khổ Đức cứu mạng cho con gái. Lão sư vội vàng chắp tay đáp lễ:
- A di đà phật! Lưu thí chủ bất tất đa lễ, bần tăng xin gắng hết sức chữa trị cho tiểu thư, cũng gọi là chút báo đáp trang chủ đã ra ân mưa móc cho lê dân trong suốt bao năm.
Đoạn lão sư sai người bồng Lưu Vân sang phía khuê phòng phía Tây Bắc, cửa mở về Đông Nam. Lại sai người chặt bỏ cái cây to hình thù kỳ dị, đào tróc đến tận gốc. Xong xuôi, ông sai người đi tìm bắt một con gà trống to nhất trong vùng, vặt lông, cắt tiết, cắt luôn cái mào gà đỏ tươi, thiến lấy hai quả cà to như hai quả phật thủ (A di đà phật!). Đoạn sai người mang cả tiết, cả cật, lẫn mào gà đem ra nấu cháo, rồi bón cho Lưu Vân ăn.
Mọi việc xong xuôi, ông mới ôn tồn giải thích:
- Các vị thầy lang ở đây không hiểu nguồn bệnh, phục thuốc cho tiểu thư toàn nhân sâm, phục thống. Những vị đó vốn là đại bổ, nhưng hàn lại thêm hàn, thực là sai lầm. Gà trống gọi mặt trời, vốn thuộc vật dương, mệnh Hoả. Lấy dương khí để trị âm khí, lấy mệnh Hỏa để sinh mệnh Thổ. Đó chính là lẽ tương sinh, tương khắc vậy.
Quả nhiên Lưu tiểu thư dùng xong vài bát cháo cật gà ( Mô phật!), sắc diện đã có phần hồng hào, tươi tắn, hơi thở cũng điều hoà nhè nhẹ. Lưu trang lấy làm mừng lắm, nhưng Khổ Đức nét mặt vẫn đăm chiêu nói:
- Vừa rồi chỉ là những biện pháp tạm thời để lưu giữ sinh mạng cho tiểu thư, chưa trị được gốc của bệnh. Mùa đông sắp về, hàn khí lại hoành hành, chỉ e không qua khỏi được ngày Đông chí. Muốn trị bệnh tận gốc, cần phải có một đồng nam, dương khí dồi dào, dùung phép "kim ngân điểm huyệt" cùng với "Ngọc nữ chân pháp" để xua đuổi âm khí, mới mong khỏi hẳn được.
Nói xong, ông đưa mắt nhìn sang Hoàng Vũ:
- Ta bản thân vẫn là một đồng nam ( Mô phật!), nhưng dương lực đã suy kiệt như ngọn đèn khô dầu. Con nay dương khí đang sung mãn, phép châm cứu và điều khí con đều đã được ta truyền dạy, thực là người phù hợp để trị bịnh cho Lưu tiểu thư. Nhưng ta chỉ e rằng trong khi chữa trị, nếu thần trí con không linh mẫn, để tạp niệm quấy nhiễu, e rằng đạo hạnh một đời của con có thể bị tiêu ma, mà Lưu tiểu thư cũng khó bề giữ được tính mệnh.
Hoàng Vũ cúi đầu lễ phép thưa:
- Thưa sư phụ, đệ tử đi theo người bấy lâu vẫn thường được nghe người căn dặn: "Cứu một mạng người, phúc đẳng hà sa, còn hơn xây bảy tầng tháp". Tấm thân cốt nhục của đệ tử cũng là do sư phụ không tiếc dương thọ mà được cứu chữa, nay lẽ nào vì tiếc chút công phu nhỏ mọn mà bỏ qua việc cứu người. Xin sự phụ và Lưu trang chủ cứ yên tâm giao việc này cho đệ tử.
Khổ Đức nghe Vũ nói, lấy làm hài lòng lắm, khuôn mặt ông lộ rõ vẻ yêu thương trìu mến nhìn người đệ tử thông minh trung hậu. Ông căn dặn Hoàng Vũ tỉ mỉ mọi việc, rồi cùng tất cả mọi người lui ra ngoài để Vũ bắt đầu trị bệnh.
Phép "kim trâm điểm huyệt" vốn đòi hỏi cực kỳ chính xác, chỉ cần lệch một vài li là nguy hiểm đến tính mệnh. Bởi vậy Hoàng Vũ đặt Lưu Vân ngồi ngay ngắn phía trước, bản thân ngồi phía sau, dần dần cởi bỏ xiêm y cho nàng. Đoạn lôi ra tám cây kim trâm dài đến năm tấc, ngắm đặt kỹ phương vị trên lưng, chuẩn bị thực hiện phép châm cứu.
Vũ vốn từ bé chưa hề gần gũi nữ sắc, lại thêm khí lực đang kỳ sung mãn. Nay ngồi sau mỹ nhân có thân hình tuyệt mỹ, eo thon, hông nở, làn da trắng mịn màng, mùi hương trinh nữ từ cơ thể nàng thơm tho bay ra phảng phất. Vũ thấy toàn thân nóng ran, khí huyết nhộn nhạo, hơi thở phả ra gấp gáp, nóng hổi, tay chân bỗng nhiên run rẩy...
Lúc đó Vũ mới nhớ tới lời dặn dò của sư phụ, cố gắng tĩnh trí, dẹp bỏ tạp niệm, chuyên tâm vào việc cứu người. Tám cây kim trâm được từ từ điểm theo đúng phương vị bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài, đoạn đặt tay trên lưng nàng, dẫn dương khí của mình cuộn cuộn vòng qua khắp kỳ kinh bát mạch của Lưu Vân. Dương khí đi đến đâu, hàn khí bị xua đi đến đấy, sau một thời gian cháy tàn hai cây nhang thì hàn khí trong người Lưu Vân đã hoàn toàn bị khu triệt, Hoàng Vũ cũng mồ hôi đầm đìa, khói trắng phả mờ trên đỉnh Thiên Linh Cái.
Những ngày sau đó, Vũ đích thân tự tay sắc thuốc phục bệnh cho Lưu Vân. Lưu Vân càng hồi phục, sắc diện càng thêm phần hồng hào tươi tắn, vô cùng mỹ lệ. Biết Hoàng Vũ đã cứu mạng mình, nàng rất lấy làm cảm kích. Lại thấy Vũ đối đãi với mình hết sức mực thước, mắt không liếc ngang, miệng không sàm sỡ, một lòng tôn kính, thực là một bậc quân tử, nên càng đem lòng yêu mến. Cả hai vốn cùng là bậc tài hoa, thông tuệ, nên thường ngồi hàng giờ đàm đạo về Kinh thư, Phật pháp, thi pháp, thư pháp... thực là mười phần tương đắc. Hai người ý hợp tâm đầu, tình cảm luyến ái ngày càng gần gũi, mật thiết, men tình chẳng mấy mà đượm lên ngây ngất, chuyếnh choáng, chẳng nỡ rời xa...
Một bữa, đôi trai tài gái sắc đang ngồi đàm đạo trong vườn, chợt nghe tiếng chim kêu lảnh lót. Ngẩng mặt nên coi thì thấy từng đàn nhạn đang gọi nhau bay về phương Nam trú Đông. Hoàng Vũ cao hứng bèn cao giọng ngâm một bài cổ thi:
Hỏi thế gian tình là chi
Tình khiến sinh tử tương hứa
Trời Nam đất Bắc song phi nhạn
Cổ thụ mấy mùa hàn sương
Hoan lạc thú
Biệt ly sầu
Ngàn lời muốn nói đều trôi theo áng mây... ( Cổ thi )
Lưu Vân chạnh lòng nghĩ đến ngày ly biệt, mới âu sầu xuất khẩu thành thơ, ngâm một khúc ngũ ngôn tứ tuyệt:
Mây giăng giăng ải Bắc
Nhạn gáy rộn trời Nam
Người phương xa biền biệt
Ta đẫm lệ hai hàng...
Ngâm xong, nàng không kìm được nước mắt, cất tiếng khóc thổn thức. Hoàng Vũ trong lòng thương cảm vô hạn, bèn cất lời an ủi:
- Ta vốn đội ơn dày của ân sư, phải đi theo để chăm sóc người lúc đau ốm, chẳng thể ở lại cùng nàng. Nếu nàng hiểu lòng ta, thì hãy đợi ngày ta hoàn thành tâm nguyện, sẽ trở về gá nghĩa trăm năm cùng nàng, mãi mãi không bao giờ xa cách.
Lưu Vân gật đầu vâng lời, gặt nước mắt cùng Hoàng Vũ nói lời thề ước, rồi lưu luyến chia tay. Khổ Đức nhìn cảnh đôi uyên ương quyến luyến, chỉ ngẩng mặt lên trời thở dài, khẽ niệm Phật hiệu... Than ôi! Mới hay mệnh là mệnh trời, duyên là duyên số vậy.
***
Ba năm trôi qua, hai thầy trò lại bôn ba qua bao miền đất, giảng giải Kinh Phật qua bao làng quê, cứu chữa cho bao người bệnh... Đến một ngày, Khổ Đức cảm thấy khí lực đã cạn, mới ngồi thiền tĩnh toạ, nét mặt ung dung, thư thái, đoạn vời Hoàng Vũ đến căn dặn:
- Con theo ta đến nay đã mười ba năm, thực là đã trọn tình trọn nghĩa. Ta cố tâm muốn dẫn dắt con theo đường Phật pháp, nhưng nhân duyên của con nặng quá, dứt bỏ không nổi. Nay đã đến lúc ta phải trở về cõi Phật, còn con phải quay lại với đời trần. Con gắng mà bảo trọng lấy tấm thân cốt nhục.
Hoàng Vũ phục lạy sư phụ, nước mắt ứa ra, luôn miệng nhận lỗi. Khổ Đức mỉm cười hiền từ nói:
- Con không có lỗi! Ta tu hành từ bé, cả đời niệm Phật, sống cuộc đời trần thế "Sắc không- Không sắc", những tưởng đã ngộ được hết lẽ của trời đất, thực ra đến bây giờ mới thấy ta mới chỉ hiểu được chính mình mà thôi. Thực ra chẳng có một cõi Niết bàn nào cho tất cả người trần, mà mỗi một người có một cõi Niết bàn riêng của mình.
Kẻ nào hiểu được chính mình, nghĩa là kẻ đó đã đến được cõi Niết bàn vậy. Con không thể tìm được mình trong Phật pháp, biết đâu con sẽ hiểu được mình trong cõi Nhân duyên, thì cũng là lẽ thường. Dù đi theo cách nào, kết quả cũng đều giống nhau cả, cùng là đến được chữ Tâm và chữ Tin mà thôi.
Khổ Đức nói xong, mới trút hơi thở cuối cùng, nhẹ nhõm quy tiên, khoé miệng còn thoáng nét cười mãn nguyện. Hoàng Vũ thấy sự phụ ra đi bình thản, trong lòng cũng bớt phần khổ tâm đau đớn. Chàng lo liệu an táng cho sư phụ xong xuôi, mới hướng về phương Bắc, tìm đường quay về Lưu gia trang, mong gặp cố nhân.
***
Về đến Lưu gia, Vũ ngẫn ngơ thấy phong cảnh tiêu điều, hoang vắng. Người trong trang đều nhìn Vũ bằng những cặp mắt ái ngại, thương xót. Lưu viên ngoại gương mặt già nua, hốc hác, gặp Vũ mới rơm rớm nước mắt, cầm tay kể lể sự tình...
Nguyên sau ngày thầy trò Vũ rời khỏi thôn trang, Lưu Vân vẫn ngày đêm tương tư thương nhớ. Nàng vốn đã mình hạc sương mai, nay lại càng thêm mấy phần tiều tuỵ. Thương nhớ Vũ, nàng làm không biết bao nhiêu thi thư, viết nắn nót trên giấy lụa rồi bỏ vào lọ, đem thả xuống dòng sông ven làng, mong có ngày đến được tay người yêu. Si tình như nàng quả là xưa nay hiếm thấy, thực là:
Đa tình tự cổ nan di hận.
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ (Cổ thi)
Nửa năm trước, bỗng có tên tri phủ trong vùng bắn tin xin cưới Lưu Vân về làm vợ cho con trai đầu của lão. Lưu gia thảy đều kinh hãi, vì Hắc tri phủ vốn nổi tiếng tàn bạo, mà con trai đầu của lão, ngoại hiệu Hắc Long, lại càng là phường uống máu người không tanh. Hắc Long tướng tá ngũ đoản, vốn nổi tiếng hung bạo, hoang dâm vô độ. Vào những phiên chợ lớn, Hắc Long vẫn thường dẫn đám lâu la khiêng theo một cái giường lớn, vây bắt đàn bà con gái, quây màn lại mà hành lạc ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Những việc thương thiên bại lý do cha con lão gây ra thực không kể sao cho hết. Dân trong vùng nghe tin thảy đều thương xót cho Lưu Vân tài hoa mà mệnh bạc, từ nay coi như rơi vào tay quỷ dữ, còn chi một cành thiên hương.
Lưu trang chủ rất mực thương con, lòng đau như cắt, nhưng không dám kháng lệnh vì sợ cái hoạ tru diệt toàn gia. Nếu lão khước từ, chỉ e rằng Lưu gia đến con gà, con chó cũng không còn một mống. Lưu Vân hiểu lòng cha già, nên chỉ lặng lẽ khóc thầm nơi khuê phòng. Mỗi lần nhớ đến Vũ, nàng lại càng thương tâm vô hạn.
Một đêm trăng khuyết, ánh trăng mờ ảo hiu hắt trên dòng sông lạnh vắng. Lưu Vân bỏ ra bờ sông, ngửa mặt lên trời than khóc hồi lâu, rồi trẫm mình xuống sông tuẫn tiết. Sáng hôm sau, dân làng đổ ra tìm nhưng chỉ còn thấy bức tình thư cuối cùng của nàng bỏ trong bình thuỷ tinh còn dập dềnh trôi trên ngọn nước. Dân làng thương xót, mới cùng Lưu gia đắp một ngôi mộ lớn ven sông, đem bức tình thư cuối cùng của nàng mà khắc trên bia đá cho đẹp lòng người con gái tài hoa mệnh bạc.
Vũ một mình lê bước đến nấm đất ven sông, phục xuống ngôi mộ đã dàu dàu ngọn cỏ mà oà lên khóc thương thảm thiết. Mắt mờ lệ, Vũ run run đưa tay lần theo từng dòng nhắn gửi của Lưu Vân:
Có Duyên một kiếp chung thuyền
Có Duyên chín kiếp phỉ nguyền yến anh
Phải người duyên nợ ba sanh
Năm trăm năm lẻ, sẽ thành phu thê
Vũ càng cảm được mỗi chung tình đá vàng, son sắt của Lưu Vân, lại càng thương tâm vô hạn, kêu lên một tiếng rồi gục xuống mê man bất tỉnh.
Đêm ấy trời đổ mưa như trút, sấm dậy ầm ầm, nước sông dâng lên nhấn chìm cả Vũ cùng nấm mộ người yêu. Chỉ trong một đêm mà dòng nước đã xói một khoảng lớn phía bờ Nam và bồi lên một ụ đất lớn bên bờ Bắc, đắp thành ngôi mộ chung cho đôi tình nhân bạc mệnh. Về sau, người ta đặt tên con sông là Lưu giang, còn khúc quanh uốn qua ụ đất lớn đó gọi là Vũ khúc. Lời nguyền năm trăm năm vẫn được những đôi tình nhân nhắc đến và người dân trong vùng truyền miệng từ đời này qua đời khác...
***
Lưu giang.
Vũ khúc.
...
Gã cựa mình tỉnh giấc rồi từ từ mở mắt, bồi hồi nhớ lại giấc mơ đêm qua, tưởng như một giấc mộng nam kha. Gã đưa tay lên dụi mắt, những giọt nước mắt nóng hổi vẫn còn ướt nhoè trên mi.
Phải chăng năm trăm năm đã qua?
Phải chăng thời gian trôi nhanh như một cái chớp mắt?!
Gã bần thần chạm vào chiếc nhẫn ngón áp út, nhớ người yêu khôn xiết.
Vài nét về blogger
"You can love me, you can hate me, but you can not despise me!.. I can win, I can fail, but I will never lose my self-respect" - Scorpion tự giới thiệu về mình như thế.
Bài đã đăng: Sa mạc UAE, Ngắm Paris từ đỉnh tháp Eiffel.