Đội lễ thuê cho khách không bị “rê”, giá 50.000-100.000 đồng cho một buổi/mâm. |
Ngồi sát lề đường, các bà lão ăn vận quê mùa huơ tay vẫy khách trong khi mắt nhắm tịt bởi gió, mưa. Từ đây vào đền Bà ở thôn Cô Mễ, xã Vũ Ninh dài chưa đầy 5km nhưng đội quân xe ôm trên 30 người từ trong đã chạy ra quần thảo, “rê” khách. Cứ thấy xe biển số lạ, nhiều nhất là biển 29 (Hà Nội), người ngồi trên xe có vẻ đi lễ là họ xúm lại: “Vào nhà em nhé!”, “Nhà em trong đền, để em đưa vào!”.
Đeo theo xe của Nam là một trung niên chạy xe máy, mặc áo mưa, bám dai như đỉa. Anh “áp tải” khách vào tận “phố ngân hàng địa phủ”, khu Thị Cầu ở sát đền. Con phố dài hơn 1 km ken đặc người, hàng quán, sầm uất hơn nhiều ngoài thị xã với trên 100 gian hàng bày ra ngồn ngộn cả hai bên.
Nam buộc phải vào “nhà hàng số 2”, có bảng đề Lưu Luyến chuyên phục vụ quý khách viết sớ, sắp lễ, thụ lộc, nghỉ trọ. Chưa đầy nửa giờ, hơn 30 tốp khách cũng lần lượt bị rê vào những “nhà hàng” bên cạnh.
Với ôtô vào đền, mỗi lần dừng xe là “đội quân” đàn bà con gái hơn chục người bu lại cửa xe “mời” khách mua đồ, thuê đội lễ, khấn thuê. Bà chủ Lưu Luyến xởi lởi: “Ngồi uống nước đi anh. Mua bao nhiêu để em soạn lễ”. Trong quán, một bà sư mặc áo nâu sồng đang viết sớ cho một vị khách. Ông chủ Lưu Luyến nhấc điện thoại bàn: “Sang đi, có khách”.
“Thầy” của Nam là một trung niên để râu, đầu bóng mượt. Thầy vận comple, đồng hồ và nhẫn vàng đeo kín tay, móng tay sơn đỏ chót. Giọng thầy ẽo ọt: “2.000 đồng một sớ. Em khấn gì?”. Thầy rút từ túi áo ra một xấp sớ đã in sẵn chữ Tàu và hỏi tên tuổi, địa chỉ của Nam rồi viết loằng ngoằng lên đó. Viết xong, thầy vơ tiền rồi vội vã đi quán khác.
Bà chủ Lưu Luyến soạn cho Nam cái lễ 30.000 đồng theo yêu cầu nhưng tự nhân lên làm ba lần: “Ba lễ 30.000 đồng là 90.000 đồng bày ở ba ban chính. Thêm mươi nghìn tiền kẹo phát cho nhà đền”. Nam ngậm ngùi nhận lễ lèo tèo với mấy thanh vàng mã, một xấp tiền âm phủ, ba cành tài lộc giá khoảng... 10.000 đồng. Bà chủ “xin” 100.000 đồng rồi kêu ôsin đội lễ đưa Nam vào đền.
Đi hết phố là gặp... ngõ, lại hàng mã địa phủ bày tràn ra. Chi chít bảng biển đỏ chót mời khách. Mỗi quán một thầy. Có quán hai ba thầy. Họ bò rạp ra viết, mặt mũi suy tư, nhăn nhó. Con ngõ hẹp chừng 3m dẫn lên cổng đền bát nháo cảnh mời chào, giành giật. Đặt chân lên bậc tam cấp cửa đền, một đội quân đổi tiền lẻ quây lại.
Theo Tuổi Trẻ, khách Hà Nội giàu, có người đổi 500.000-1 triệu đồng lấy loại tiền 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng mới, xấp lại từng thếp để tán lộc. Qua sân thượng tới nhà tiền tế, đội quân mời rút thẻ, quẻ, lá lộc tử vi lại tràn ra, cứ 10.000-20.000 đồng một lần rút, trong khi loa nhà đền văng vẳng yêu cầu khách không tham gia rút quẻ. Bảng biển nghiêm cấm bày khắp nơi.
Trong khói hương nghi ngút và rầm rì tiếng khẩn cầu ở cung Đệ tam, Nam thành kính ngồi xuống trước gian thờ Tứ Phủ Công Đồng. Trên manh chiếu nhỏ, không biết từ lúc nào ba bà già ăn vận quê mùa đã ngồi sẵn, trước mặt là ba cái đĩa nhỏ, mỗi đĩa đặt hai đồng xu. Một bà nhìn ngước lên ban nhưng mắt nhắm tịt. Hai bà còn lại thì rôm rả buôn chuyện chợ búa ngày tết.
Nam hỏi: “Có khấn hộ không?”. Bà ngồi ngoài môi đen, răng đen, mắt lèm nhèm giật mình, hỏi vồ vập: “Có chứ, có chứ. Khấn thuê”. Nam thắc mắc: “Con không có sớ...”. Bà gạt phắt đi: “Cần gì sớ, khấn kiểu gì chả được. Con cầu lộc hở. Đưa tiền cho bà...”. Khi hỏi về chuyện công xá thì bà tỉnh queo đáp: “Tùy tâm năm, mười nghìn”.
Đưa 10.000 đồng, bà già vơ vội rồi hỏi tên tuổi, địa chỉ kỹ càng và khấn: “Ơ... ờ... ờ... Con lạy Tứ Phủ Công Đồng... Ơ... ờ... ờ... Hôm nay ngày... Thí chủ con là... Ơ... ờ... ờ... Tên gì nhỉ?”. Bà khấn tiếp: “Ơ... ờ... ờ... Thí chủ con là... Trú tại... Ơ... ờ... ờ... Trú đâu hở con?”. “ Ơ... ờ... ờ, trú tại Hà Nội... Ơ... ờ... ờ... Nếu được xin cho một âm một dương”.
Bà già vơ lấy cái đĩa, ngửa hai đồng xu lên hai ngón tay tung vèo một cái. Được ngay một âm một dương. Bà chìa đĩa ra: “Được nhé, xong rồi!”. Nam nhờ bà khấn xin năm nay lấy vợ. Bà quên ngay: “Tên gì hở con, trú ở đâu?” nhưng không quên: “Đưa tiền nữa con ạ, một lần khấn một lần tiền!”...
Sang cung Thượng thờ Tam tòa Thánh mẫu. Hơn chục bà khấn thuê lại bu vào, tay ai cũng cầm cái đĩa trên đặt hai đồng xu. Cung nào cũng có “đội quân” này. Nháo nhác, giành giật ngay trước chốn linh thiền.
Một “thầy đồ” viết sớ tại phố “ngân hàng địa phủ”. |
Phố “ngân hàng địa phủ” có trên 100 “thầy đồ”. Các thầy ăn mặc tân thời (comple, giày tây, thậm chí cà vạt) hoặc ăn vận giả cổ (quần áo nâu, vấn khăn trên đầu). Vài thầy trung niên thì để râu, đeo kính, cố làm vẻ có chữ nghĩa, có học.
Các thầy trẻ hơn, có người chưa đến 30, cũng để râu, sơn móng tay, nói chuyện một thầy, hai thầy nhưng toàn bàn làm ăn, chơi bời nhảy múa. Một thầy tên Hòa khoe: “Chữ ta chữ Tàu anh viết được hết! Không như bọn trong đền, viết chữ loằng ngoằng, đọc phải nheo mắt, méo mồm. Người thường nhìn chẳng hiểu huống hồ người âm”.
Theo thầy Hòa, “bậc cao nhân” ở phố may lắm cũng thuộc mặt được trên dưới 100 chữ Tàu. Ai nhờ, cứ mang mấy chữ đó ra viết đi viết lại lòe thiên hạ. Để cho sang, chữ ta cũng phải thảo theo lối thư pháp, nghĩa là cũng loằng ngòa loằng ngoằng. Khâm phục “kiến thức”, Nam xin thầy chữ “nguyễn”.
Thầy phết mực thật đậm, nhăn trán nghĩ ngợi một hồi rồi mắm môi mắm lợi phết lên khuôn giấy đỏ chót. Thầy bán chữ “kỷ niệm em” giá 10.000 đồng. Nam tá hỏa bởi chữ “nguyễn” thầy viết thành chữ... “tướng”. Nam mang chữ thầy Hòa nhờ một thầy khác đọc hộ. Thầy này dáng người tròn lẳn, mặc áo bà ba nâu, để ria con kiến. Thầy nhăn mặt, ngẫm nghĩ một hồi rồi phán: “Đây là chữ... nhẫn” và không quên luôn mồm “chửi” các thầy khác.