Số phận của chị tiêu biểu cho rất nhiều phụ nữ nông thôn, sinh ra quanh quẩn ở làng quê, lấy chồng "cho khỏi ế" và quanh quẩn với đồng áng, cơm nước, phục vụ chồng và nhà chồng. Thế nhưng, chị khác họ ở chỗ đã dũng cảm phá bỏ tất cả những điều bất công với mình, làm lại cuộc đời.
Lê Thị Thuý, quê Hà Tĩnh, hiện sinh sống tại đường Đỗ Xuân Hợp, quận 9, TP HCM với nghề bán phở. Chị sinh năm 1968, ở một vùng quê nghèo thuộc miền núi Hà Tĩnh, nghèo xác nghèo xơ. Con người ở đây vẫn còn mang nặng nhiều định kiến và suy nghĩ cũ kỹ khó gỡ bỏ. Nhà chị Thuý không quá đông con, chỉ có ba đứa, chị là út nên được cho đi học đến lớp 8, cũng coi như học thức cao nhất làng, vì bọn trẻ trong làng ít đứa được đi học, chỉ suốt ngày lo lợn gà, phụ giúp bố mẹ.
Chị chỉ thích đọc sách, đi học, hay mơ mộng, việc nhà thì ngoài thái rau lợn, đi nhặt củi, chị cũng chẳng phải làm gì nhiều. Mơ ước của chị Thúy là lớn lên đi học sư phạm để làm cô giáo. Bởi vậy, khi lớn lên, nhìn quanh thấy trai làng chỉ tầm thường nên bao nhiêu người đeo đuổi, chị chẳng chịu yêu ai. Nhưng với gia đình chị, cho con gái đi xa, học rộng là chuyện "không tưởng".
Đến năm 20 tuổi, con gái trong làng lần lượt lấy chồng hết, chỉ còn lại mình chị Thúy nên bị dè bỉu là "gái già". Gia đình bắt đầu sốt ruột, hối thúc. Năm 1990, khi chị 22 tuổi, bố chị kiên quyết bắt đi lấy chồng. Khóc lóc, vật vã, trốn chạy rồi cũng không qua được quyền của cha mẹ, lệ làng lệ xóm, chị đành phải gạt nước mắt chấp thuận. Chồng chị ở làng bên, con trai một nhà nhiều ruộng, lắm trâu, đông con, cha mẹ chị rất ưng ý.
Lấy chồng rồi, những chuỗi ngày mơ mộng, thong thả của chị kết thúc. Nhà chồng có 7 anh em, ba nàng dâu ở chung nữa, cộng với cha mẹ và bà nội chồng, cả thảy 13 người dưới một mái nhà. Là dâu út, chị Thúy thường xuyên bị các chị dâu bắt nạt, họ bảo chị là đồ "tiểu thư nông dân", đồ ăn trắng mặc trơn, vụng về, vô tích sự. Chị làm việc gì cũng bị họ chế giễu, tìm cách phá hoại. Cha mẹ chồng chẳng những không bênh mà còn nhiếc móc.
Chồng chị thì lầm lầm lì lì, cả ngày chỉ biết vác cày ra đồng, tối vác về, ngồi trà rượu với bố, rồi vào giường ngủ. Cứ thế chị Thúy sống trong ghẻ lạnh của gia đình nhà chồng, cộng thêm với sự lạnh nhạt vô cảm của người chồng và những công việc đồng áng nặng nhọc oằn vai. Có những lúc cảm thấy buồn tủi vì bị bắt nạt, chửi mắng, chị trốn về nhà khóc với mẹ nhưng bị bố phát hiện, đánh đuổi đi, vì "mày đã là dâu con người ta, không được hễ tí chạy về nhà thì người ta chửi vào mặt tao".
Niềm ai ủi duy nhất của chị Thúy là những quyển sách tích cóp mua được mỗi lần đi chợ bán gà, bán rau. Chị giấu giấu giếm giếm, đêm chong đèn đọc một mình. Có khi nửa đêm, chồng tỉnh dậy nhìn thấy, vứt luôn quyển sách của chị ra cửa sổ. Chị Thuý kể, có lần chị mải mê đọc cuốn "Cây phong non trùm khăn đỏ" của Nga đến mức quên bẵng, làm trào gần nửa nồi cám lợn. Anh ta chị đánh cho chị một trận nên thân, còn mẹ chồng thì vào buồng lục lọi tất cả sách chị giấu dưới gầm giường đem đốt sạch trước mắt.
Có lẽ áp lực tinh thần cộng với việc làm lụng vất vả mà lấy chồng hơn ba năm chị Thúy vẫn chưa sinh con. Thế là chị trở thành tâm điểm của sự móc méo, xiên xỏ của nhà chồng. Mẹ chồng và các chị dâu thì đi đâu cũng rêu rao là "nhà vô phúc có con dâu bị điếc". Đến năm 1995 thì chị có thai, nhưng một lần say rượu về, chồng chị đã tát chị, ngã vào cánh cửa khiến đứa trẻ đã ra đi khi chưa kịp tượng hình.
Thời điểm chị Thúy đang đau khổ nhất thì lại bị nhận được nhiều nhất sự ghẻ lạnh của nhà chồng. Người chồng lúc này bắt đầu cặp kè lén lút với một phụ nữ quá lứa làng bên. Chị biết nhưng mỗi lần nhắc tới là bị chồng đánh, gia đình chồng chửi mắng. Họ lấy lý do chị không thể có con thì phải im lặng để chồng đi kiếm con.
Những ngày đoạ đày đó chị tìm niềm vui bằng cách tham gia Hội phụ nữ ở thôn. Tại đây, chị sống trong sự yêu thương, chia sẻ của các chị em hội viên. Chị Hà Thị Diệu, Hội trưởng, sau khi nghe tình cảnh của chị Thúy, đã đến nhà khuyên gia đình chồng, nhưng mỗi lần chị em Hội phụ nữ ra về thì chị còn nhận những trận đòn còn đau đớn hơn.
Một lần, anh ta chị bỏ nhà đến ở với "vợ bé" mấy ngày liền, khi về kiếm chuyện đánh đập chị. Quá tức giận, chị xô anh ta ngã đập đầu vào tường, máu lênh láng. Anh ta nhào dậy, cầm cuốc đuổi, cùng lúc cả gia đình nhà chồng chạy xô ra, hô lên là chị giết chồng. Chị Thúy được các chị em Hội phụ nữ che giấu, rồi trong đêm, chị bắt chuyến xe vào Nam.
Vào đến TP HCM, chị đến nhà người bà con của chị Diệu tá túc. Sau đó, chị xin vào phụ bán quán phở, rồi nhờ dành dụm chắt chiu, đến năm 2002, chị đã mở được cho mình một quán phở nho nhỏ ở Thủ Đức. Năm 2003, chị Thúy mới quay về quê sau bao năm bỏ trốn, thăm cha mẹ, anh chị và thực hiện thủ tục ly hôn với chồng. Người chồng vũ phu năm xưa lúc này đã có vợ mới, có con, hoá ra anh ta đã làm đơn xin ly hôn đơn phương với chị từ mấy năm trước.
Mọi chuyện ở quê giải quyết xong, chị quay vào thành phố. Một thời gian sau, chị quen với chồng chị bây giờ, anh là thợ điện ở quận 9, cũng một đời vợ nhưng vợ và con đã mất sau một tai nạn giao thông. Họ cưới nhau bằng một bữa cơm đầm ấm rồi dọn về sống chung ở quận 9. Chị Thúy rời quán phở của mình về đường Đỗ Xuân Hợp cũng vì thế.
Chị bảo: "Chồng tôi bây giờ rất hiền từ, yêu thương và tôn trọng vợ. Từ cuộc hôn nhân ngày xưa, tôi cũng rút ra một điều là mình không được nhu nhược, cam chịu quá mức, người ta vừa không thương mình, mà còn coi thường mình nữa".
Chị kể thêm: "Mấy đợt tôi về thăm quê, thấy quê mình nay đã khác hẳn. Không còn chuyện ép gả, rồi chuyện con gái lấy chồng mà bị cả nhà chồng bắt nạt như xưa. Thế nhưng, chuyện các cô gái nông thôn lấy chồng sớm, rồi chồng sa vào rượu chè, bạo hành vợ thì vẫn còn nhiều lắm, chỗ nào cũng có.
Con bé cháu tôi năm nay mới 20 tuổi mà đã một nách hai con, lại bị thằng chồng say xỉn đánh suốt ngày. Nó bảo tôi: "Cháu muốn được như cô, dám bỏ đi để thay đổi cuộc sống. Nhưng cháu bây giờ hai đứa con rồi, có nổi loạn cũng không được. Cháu tiếc giá ngày xưa như chúng bạn, học hành đàng hoàng, đừng đi lấy chồng sớm như thế thì đâu đến nỗi”...
Theo Pháp Luật Việt Nam