Quan niệm lấy chồng nước ngoài để được xuất ngoại, được thay đổi hoàn cảnh sống, mong muốn có cuộc sống sung túc hơn và có điều kiện giúp đỡ gia đình đã tác động vào tâm lý, trở thành động lực thúc đẩy nhiều cô gái Việt Nam muốn được kết hôn với người Đài Loan, dẫn đến sự gia tăng mạnh về số lượng và tạo nên “phong trào” lấy chồng Đài Loan của các cô gái ở các tỉnh phía Nam.
![]() |
Ông khách Đài Loan này chụp mỗi cô gái Việt Nam 1 tấm ảnh để mang về nước giới thiệu, mai mối. |
Phần lớn các cô gái Việt Nam này đều xuất thân từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trình độ học vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định; nhiều gia đình mắc nợ không có khả năng chi trả nên luôn hy vọng vào một cuộc sống khác... Nhưng không phải cô gái nào khi lấy chồng Đài Loan cũng đều có cuộc sống khá giả, sung sướng; đã có trường hợp phải trốn ra ngoài do không chịu đựng nỗi sự cực khổ hoặc không phù hợp với cuộc sống nơi xứ người; cũng có trường hợp bị chồng hành hạ, phải nhờ chính quyền địa phương can thiệp...
Quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan đã phát sinh từ năm 1989. Tuy nhiên, từ năm 1989 đến 1993 số lượng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan không nhiều, tập trung chủ yếu vào số người Việt gốc Hoa sinh sống tại thành TP HCM. Thời gian gần đây, quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và Đài Loan ngày càng tăng đã kéo theo ngày càng nhiều người từ hòn đảo này vào Việt Nam làm ăn, buôn bán và du lịch nên xu hướng lấy vợ Việt Nam của đàn ông Đài Loan ngày càng phát triển, tập trung chủ yếu tại TP HCM và các tỉnh miền Tây Nam bộ (chiếm 89% cả nước).
Quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan thực sự tăng nhanh và trở thành mối quan tâm của toàn xã hội từ sau khi Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 184/NĐ-CP ngày 30/11/1994 quy định về thủ tục đăng ký kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Sự phát triển mạnh của quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan đã hình thành một cộng đồng cô dâu Việt tại xứ Đài, sống ở hầu hết các địa phương của Đài Loan nhưng tập trung chủ yếu ở Đài Bắc, Đài Trung, Đài Nam, Chương Hóa, Cao Hùng...
Cô dâu Việt Nam tại Đài Loan sống cùng gia đình nhà chồng, đa số thuộc tầng lớp có mức sống trung bình, chủ yếu là công nhân, nông dân, làm thuê...; một số gia đình có cuộc sống khá giả, sung túc, có cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc làm công chức. Bên cạnh đó cũng có một số ít chú rể Đài Loan không nghề nghiệp, không có việc làm ổn định hoặc đã già, cuộc sống vất vả, khó khăn. Có được cuộc sống ổn định tại Đài Loan không phải là chuyện dễ dàng với tất cả những cô dâu Việt Nam sang lấy chồng tại đây bởi hầu hết các cô gái Việt Nam khi có ý định lấy chồng Đài Loan đều không được tư vấn, không có sự tìm hiểu, chuẩn bị và trang bị cho mình những kiến thức cần thiết khi đi làm dâu xứ người, họ không hề biết rằng cuộc sống tương lai của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Sang làm dâu tại Đài Loan, trở ngại đầu tiên mà các cô dâu Việt Nam gặp phải là vấn đề quốc tịch, số này thường rơi vào những cô dâu sang lấy chồng trong vòng 2-3 năm trở lại đây. Họ là những người mới nhập cư, chưa đủ điều kiện nhập quốc tịch, không được cấp giấy tờ tùy thân của Đài Loan nên hầu hết không có việc làm, chỉ ở nhà nuôi con, nội trợ và phục vụ công việc gia đình, giao tiếp xã hội gần như bị hạn chế.
Cá biệt, một số cô gái Việt Nam lấy phải chồng già, chênh lệch về tuổi tác quá lớn nên giữa hai vợ chồng rất khó có sự hòa hợp, đồng cảm. Mục đích lấy vợ của những “đức lang quân” Đài Loan này chủ yếu là để có người chăm sóc, phục vụ nên cuộc sống của những cô dâu này bị quản lý rất khắt khe, chặt chẽ; họ không được giao tiếp và không được gặp gỡ bạn bè, đồng hương hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác vì gia đình nhà chồng sợ các cô dâu bỏ trốn.
Theo Công An TP HCM, thời gian qua, các cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan đều thông qua hoạt động dịch vụ môi giới hôn nhân đơn lẻ, tự phát; trong đó chủ yếu là bất hợp pháp dưới các hình thức tư vấn hỗ trợ kết hôn và dịch vụ tổ chức lễ cưới. Kết hôn với người Đài Loan qua các dịch vụ này, quyền lợi của người phụ nữ không được đảm bảo, không có tổ chức, đoàn thể nào đứng ra bảo vệ quyền lợi của họ sau khi kết hôn, mức độ rủi ro rất lớn và quan trọng hơn là họ không được tư vấn, trang bị các điều kiện cần thiết trước khi đi làm dâu ở Đài Loan.
Do mang lại lợi nhuận lớn nên hoạt động môi giới hôn nhân nhanh chóng được thương mại hóa, làm hình thành một thị trường thực sự, có sự cạnh tranh giữa các tổ chức, cá nhân môi giới. Hoạt động dịch vụ môi giới hôn nhân bất hợp pháp ở các tỉnh phía Nam được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi nhằm đối phó với sự phát hiện của cơ quan chức năng. Các đối tượng tổ chức thành đường dây môi giới hôn nhân với người nước ngoài hoạt động rất chuyên nghiệp để tránh các quy định của pháp luật. Thay bằng việc gom các cô gái ở các tỉnh miền Tây Nam bộ có nhu cầu lấy chồng nước ngoài lên tập trung tại một điểm ở TP HCM để tổ chức cho người nước ngoài xem mặt, hiện nay các đường dây môi giới hôn nhân đưa chú rể ngoại tương lai trực tiếp xuống các tỉnh có chị em muốn lấy chồng Đài Loan để “xem mặt, chọn vợ”.
Việc tổ chức “xem mặt, chọn vợ” cho người nước ngoài ngay tại địa phương được tổ chức phân tán thành các nhóm nhỏ, thông qua các môi giới dẫn xuống tận các ngõ xóm không kể thời gian nên công tác phát hiện của các cơ quan chức năng rất khó khăn. Quyền lợi của người phụ nữ khi làm dâu tại nước ngoài vẫn chưa được đảm bảo và họ vẫn phải gánh chịu những rủi ro.