Trần Hồng Chương - đội trưởng đội văn nghệ của trại giam số 3 (Thanh Chương – Nghệ An) là một phạm nhân nổi tiếng. Chương là hạt nhân của đội văn nghệ trại giam, là tác giả nhiều ca khúc, vở kịch đầy tình người và khát vọng hướng thiện. Chương còn nổi tiếng bởi mong muốn được hiến xác cho khoa học, như một cách chuộc lại những lỗi lầm đã qua. Phunutoday trích đăng nhật ký của phạm nhân này.
Ý chí 'xương rồng' trên mảnh đất nghèo
Tôi sinh năm 1972, tại vùng quê Can Lộc nghèo khó của Hà Tĩnh. Cũng giống như nhiều người sinh ra ở mảnh đất này, tôi đã trải qua những ngày tháng thơ ấu đầy khó khăn. Người Hà Tĩnh đi đến đâu cũng có một niềm tự hào, đó là dù nghèo nhưng luôn hiếu học, luôn cần cù, chịu khó, cố gắng học hành thành tài để thay đổi cuộc đời mình.
Bố mẹ tôi nghèo, gia đình thường xuyên thiếu ăn thiếu mặc, nhưng bố mẹ luôn nói tôi nhất định phải học hành thành tài. Tôi như một cái cây xương rồng lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, luôn cố gắng vươn lên trong cuộc chiến sinh tồn giữa dòng đời khắc nghiệt.
Ngày nhỏ tôi thông minh, học giỏi và rất siêng năng. Hết những năm phổ thông, với mơ ước làm giàu, tôi thi vào chuyên ngành kinh tế của ĐH Tổng hợp Hà Nội. Tôi ra Hà Nội học, bố mẹ tôi hầu như chẳng có tiền chu cấp. Cứ dành được một hai trăm nghìn, bố mẹ lại gửi ra cho tôi. Số còn lại, tôi tự khắc phục lấy. Những năm tháng ở giảng đường đại học, tôi vừa đi học vừa đi làm thêm kiếm tiền. Tôi đi làm gia sư, phụ hồ, làm phu khuôn vác. Tất cả những công việc cực nhọc nhất tôi đã trải qua, miễn là có tiền.
Tôi tốt nghiệp đại học với tấm bằng đỏ và tìm đường vào TP HCM lập nghiệp. Ở trong đó, tôi vừa đi làm thêm kiếm tiền trả tiền nhà, tiền sinh hoạt, vừa chờ một cơ hội công việc phù hợp. Và trời không phụ lòng người, sau rất nhiều vòng thi, vượt qua gần 1.000 thí sinh, tôi đã trúng tuyển vào Trung tâm Thông tin Thương mại của Bộ Công thương, chi nhánh TP HCM. Được nhận vào cơ quan bộ, với tôi là một giấc mơ đẹp nhất. Tôi đã rối rít cảm ơn những người đã phỏng vấn và đồng ý nhận tôi.
Tôi vẫn nhớ người phỏng vấn tôi ở vòng cuối cùng là một người đàn ông sang trọng, có gương mặt phúc hậu và ánh nhìn hiền từ. Khi nghe kể về hoàn cảnh của tôi, ông ấy đã nói: Tôi trao cơ hội cho cậu, cậu hãy cố gắng để khẳng định tài năng.
Vào Bộ Công thương, tôi được đưa về phòng kinh doanh phát triển thị trường. Ở Bộ có nhiều dự án, với mỗi dự án thành công, tôi đều được chia một khoản tiền lớn. Sau mấy tháng đi làm, số tiền dành dụm được tôi dành để đầu tư vào bất động sản kiếm tiền sinh lãi. Chỉ sau 3 năm, tôi đã có một khoản vốn kha khá, với một chiếc xe ôtô và một số tiền phòng thân.
Năm 1999, tôi lập dự án khai thác tiềm năng của khu vực miền Trung quê tôi và được chấp nhận. Tôi trở về Hà Tĩnh với quyết tâm cùng người dân xây dựng quê hương. Tôi trở thành niềm tự hào của gia đình, bố mẹ và con gái tôi.
Phạm nhân Trần Hồng Chương. |
Đồng tiền khiến tôi gục ngã
Tôi lấy vợ sớm nhưng chẳng may hoàn cảnh bất hạnh nên sớm phải rơi vào cảnh gà trống nuôi con. Khi vào TP HCM lập nghiệp, tôi phải gửi con lại cho bố mẹ. Lúc gia đình còn nghèo, cuộc sống của chúng tôi khá chật vật. Nên khi thành đạt, tôi cố gắng bù đắp cho bố mẹ. Tôi giúp họ sửa nhà, giúp chị em ổn định kinh tế và giúp người có hoàn cảnh khó khăn trong xóm nuôi con ăn học.
Thời gian này, vì thường xuyên làm việc với nhiều cơ quan ban ngành mà tôi tình cờ quen Hồng Anh, cán bộ Phòng Công nghệ sinh học của Sở Khoa học Công nghệ. Tôi đã kể cho Hồng Anh nghe về hoàn cảnh của mình. Thấu hiểu hoàn cảnh của tôi, Hồng Anh đã nhận lời yêu và cùng tôi xây dựng hạnh phúc. Biết tôi đã có một đời vợ, gia đình Hồng Anh phản đối gay gắt nhưng chúng tôi vẫn đến với nhau.
Sau đám cưới, chúng tôi cùng xây dựng tổ ấm, vun đắp tương lai. Hạnh phúc của gia đình hoàn hảo hơn khi chúng tôi đón đứa con chung đầu tiên. Có vợ con, tôi càng phấn đấu để phát triển sự nghiệp. Nhưng trên đà thành công, có lẽ vì mọi việc quá suôn sẻ, tôi đã háo thắng và mắc những sai lầm không thể sửa chữa.
Thời gian ở Hà Tĩnh, tôi có quen với một người đàn ông dắt mối cho lao động sang xuất khẩu ở các nước châu Âu. Ông ta hứa sẽ chi cho tôi hoa hồng 200 USD một người nếu tôi giúp ông ta tìm được những người có nhu cầu xuất khẩu lao động ở Hà Tĩnh. Mãi sau này trong quá trình làm ăn, tôi mới biết đường dây này đưa người đi xuất khẩu lao động bất hợp pháp.
Lẽ ra tôi phải dừng lại, phải tố cáo sự phi pháp của đường dây xuất khẩu lao động này, nhưng lúc tôi biết sự thật, đối tác đã hứa chia cho tôi 50% lợi nhuận. Ma lực đồng tiền và bản lĩnh sống kém cỏi đã khiến tôi liều nhắm mắt đưa chân.
Tôi làm một bộ dấu giả của Trung tâm Thông tin Thương mại, dấu chức danh, tên và con dấu của Trung tâm này ở khu vực miền Trung để tiếp cận với nhiều người dân có nhu cầu đi xuất khẩu lao động. Chỉ trong vòng 4 tháng, tôi đã thu về lợi nhuận 120.000 USD. Toàn bộ số tiền này tôi mua một ngôi nhà ba tầng, mở phòng karaoke và kinh doanh nhiều dịch vụ khác.
Công việc cứ thế trôi đi thuận lợi, số tiền tôi thu về có lúc lên đến 200.000 USD. Tôi mờ mắt vì đồng tiền, mà không hề lường đến những hậu quả sẽ phải chịu. Càng dấn sâu vào con đường tội lỗi này, tôi càng thấm thía một điều: đồng tiền có sức mạnh chi phối khủng khiếp các mối quan hệ trong thời đại này, có thể biến không thành có, biến đen thành trắng, biến những điều tưởng như không thể thành có thể…
Tôi cứ thế lao vào vòng xoáy của các vụ làm ăn bất hợp pháp, không hề nghĩ đến chuyện dừng lại và hậu quả của nó. Đã có những lúc, tôi trở thành chuyên gia đưa người đi nước ngoài, đặc biệt là các thị trường Đông Âu, Nga, Australia, Mỹ, Đài Loan...
Đã có những lúc kể cả 19h tối, tôi cũng có thể lấy visa nhập cảnh vào các nước Nga, Belarus, Ba Lan… Những khách hàng có vết đen, không có giấy tờ tùy thân cũng được tôi đưa từ Hà Nội vào TP HCM, qua Campuchia rồi từ đây sang các nước với giá cao gấp đôi. Tất cả là nhờ tiền. Có tiền, tôi bắt đầu xao nhãng gia đình. Tôi thường xuyên xa nhà, tham gia những cuộc nhậu nhẹt, tiệc tùng để mở rộng quan hệ với đối tác.
Nhà hàng, quán bar, các tụ điểm ăn chơi xa xỉ, trụy lạc trở thành điểm đến quen thuộc của tôi với nhiều cán bộ có chức quyền, các đầu nậu, đầu mối, các quan chức tại các sân bay, hải quan, cửa khẩu… Trong guồng quay đó, tôi không còn thời gian để thăm gia đình, vợ con, bạn bè. Tôi sa đà vào các cuộc vui của giới thượng lưu, ăn chơi trác táng, say sưa tiệc tùng và qua đêm với những người đẹp là chân dài, là người mẫu, tiếp viên hàng không. Tôi đã phải trả giá cho những hành động của mình.
Chuyện đưa người bất hợp pháp sang các nước lao động của tôi bắt đầu đổ bể khi nhiều hồ sơ giả bị phát hiện tại các sân bay. Tôi phải đền tiền cho những người lao động. Nợ nần bắt đầu chồng chất. Không có tiền, tôi đi lừa của những người ký hợp đồng lao động mới, lấy chỗ này đắp chỗ kia. Những người đi lao động ở nước ngoài bỏ về nước vì không có được công việc như đã hứa đã đến Bộ Công an làm đơn tố cáo tôi. Tôi bị công an bắt vào một ngày cuối năm.
Chỉ đến khi mất hết tất cả, tôi mới nhớ đến những người thân. Đêm đầu tiên bị bắt về tại Trại tạm giam B24 của Bộ Công an, tôi nằm co ro, trong đầu ngập tràn hình ảnh cha mẹ. Chắc cha mẹ tôi sẽ tuyệt vọng lắm khi biết tôi ra nông nỗi này. Còn vợ tôi, con tôi sẽ đau khổ tột cùng, không còn đủ sức để sống khi gia đình tan vỡ. Chỉ vì tham tiền, tham danh vọng giàu sang, tôi đã bất chấp tất cả thủ đoạn để kiếm tiền, khiến bao nhiêu người bị tôi lừa đã rơi vào cảnh tan cửa nát nhà.
Với hai tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tổ chức cưỡng ép người đưa đi nước ngoài trái phép”, tôi bị tuyên án 24 năm tù và buộc bồi thường 1,127 tỷ đồng. Khi nghe tòa tuyên án, tôi chết lặng trong vành móng ngựa, nhưng tôi biết so với hậu quả bao gia đình bị hại đang phải gánh chịu, thì bản án dành cho tôi là hoàn toàn xứng đáng.
Nguyện được hiến xác cho khoa học sau khi chết
Tôi còn nhớ lúc kết thúc phiên tòa, bị tuyên án 24 năm, tôi bị còng chặt tay đi giữa hai cán bộ dẫn giải mà mắt mải miết tìm kiếm hình ảnh của những người thân yêu. Ở góc khuất bên ngoài hành lang, mẹ tôi gục xuống trong vòng tay cha.
Bố tôi đứng lặng ôm mẹ tôi, gương mặt già nua, khắc khổ. Tôi cũng cố tìm kiếm hình ảnh người vợ yêu quý sau quãng thời gian bị tạm giam một năm không gặp nhưng không thấy. Ngày hôm đó, em cũng có đến, tay bồng đứa con trai mới sinh, nhưng chỉ đứng một góc nhìn tôi, mắt đẫm lệ.
Khi đó tôi ao ước được một lần đối diện với em, để nói "Tôi yêu em và con hơn tất cả" nhưng con đường tôi chọn đi, con đường mà tôi cứ nghĩ sẽ đưa tôi đến thiên đường, cuối cùng lại đưa tôi xuống địa ngục. Tôi chỉ còn biết cầu mong em hạnh phúc.
Suốt hơn 10 năm qua, vợ chồng tôi coi như đã ly thân. Thỉnh thoảng em vẫn đưa con lên trại giam thăm tôi. Thương em còn quá trẻ, tôi quyết định tự giải thoát cho vợ vì không muốn để em phải chờ đợi tôi trong thiệt thòi suốt những năm tháng tuổi thanh xuân. Thế nhưng đến giờ em vẫn ở vậy nuôi con. Có thể em không còn dành tình cảm cho tôi, nhưng tôi vẫn luôn yêu em và biết ơn em vì tình yêu và sự hy sinh mà em đã dành cho những đứa con của tôi và em.
Tôi được đưa về trại giam số 3 (Nghệ An) từ tháng 9/2002. Tính cả khoảng thời gian bị tạm giam, tôi đã ở tù được gần 12 năm. 12 năm đó là một quãng đường không dễ quên trong cuộc đời. Những năm tháng ở trong trại giam, tôi vô cùng ân hận về tội lỗi của mình. Bố mẹ già hẳn đi sau cú sốc mà tôi đã gây ra cho gia đình. Giờ ngày ngày bố mẹ thường đưa nhau lên chùa để cầu bình an.
Không chỉ ân hận với bố mẹ, tôi còn ân hận, day dứt với những nạn nhân của tôi. Vì tôi mà biết bao gia đình đã khánh kiệt, đã rơi vào cảnh khốn cùng. Tôi biết việc tôi ở tù có thể giúp tôi trả món nợ với pháp luật, nhưng không thể giúp tôi trả món nợ với những gia đình nạn nhân.
Số tiền tôi đã chiếm đoạt của họ không cách nào khắc phục được. Điều đó khiến tôi vô cùng day dứt. Vì thế nguyện vọng của tôi là được hiến xác cho y học để bù đắp cho những lỗi lầm đã qua trong đời mình.
Có lần tôi xem TV thấy có phóng sự phản ánh thầy trò trường Đại học Y Thái Nguyên đang phải dạy chay, học chay, thiếu xác để thực hành nghiên cứu, nên tôi có nguyện vọng được hiến xác cho trường Đại học Y Thái Nguyên sau khi chết, để các em sinh viên trường Y có điều kiện thực hành và trở thành một bác sĩ tốt, giúp đời, giúp người sau này. Như thế coi như tôi cũng chuộc được phần nào tội lỗi hoặc nếu có người nghèo nào đang bị bệnh tật, như bị thận, tôi sẵn sàng hiến thận cho họ, không đòi hỏi bất cứ quyền lợi nào.
Nhật ký 'Viết từ trái tim' và cuộc đời tự kể sau song sắt
Tôi vào trại giam số 3 đúng lúc Ban Giám thị trại giam có ý định thành lập một đội văn nghệ phạm nhân để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục những người lầm lỗi như chúng tôi. Tôi may mắn được ăn học tử tế, lại có chút chữ nghĩa văn chương, thơ phú, âm nhạc nên được giao xây dựng phong trào. Từ đó đến nay, tôi đã sáng tác nhiều bài hát, nhiều vở kịch.
Mỗi vở kịch, mỗi bài hát đều là những nỗi niềm gan ruột của tôi, là sự sám hối, giác ngộ về những tội lỗi mà tôi gây ra. Như trong bài “Khúc hát người lầm lỗi”, tôi có viết: "Là những người một thời lầm lỗi đi trong màn đêm lầm đường lạc lối/ sau những cơn mê tỉnh dậy sẽ thấy sáng lên trọn vẹn niềm tin đất mẹ còn ôm ta vào lòng/ hỡi những người lầm lỗi/ từ giã quá khứ hướng về tương lai/ vẫn còn trong ta hơi ấm quê hương/ và bao người thân nâng bước ta trên đường hoàn lương”. Khi chúng tôi biểu diễn, nhiều phạm nhân đã rơi nước mắt vì đồng cảm.
Tôi viết thơ, văn xuôi, kịch. Chất liệu của tôi chính là cuộc sống trong trại giam, là những số phận sau song sắt, là hình ảnh những cán bộ quản giáo tận tuy, nhân ái chăm sóc phạm nhân nhiễm HIV đang chới với trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Chất liệu của tôi là hình ảnh những người vợ đến thăm chồng, những người mẹ đến thăm con, là nước mắt của đứa con lầm lỗi khi không thể về chịu tang mẹ...
Tôi thường viết nhật ký vào đêm khuya. Tôi gọi nhật ký của mình là “Viết từ trái tim”. Đó là những ý nghĩ gan ruột xuất hiện trong đầu tôi mỗi ngày. Sau này khi ra khỏi trại giam, cuốn nhật ký đó sẽ là người bạn đồng hành của tôi, nhắc nhở tôi về những ngày tháng sai lầm, để tôi luôn biết cách vượt qua cám dỗ.
Ước mơ lớn nhất của tôi là khi nào ra tù sẽ xuất bản một cuốn sách viết về những ngày tháng trong trại giam của tôi và những bạn tù của tôi, về sự giúp đỡ của Ban Giám thị và hội đồng cán bộ dành cho chúng tôi. Đó sẽ là lời tri ân mà tôi dành cho các cán bộ của Trại giam số 3, những người mà tôi coi như người thầy của mình, những người đã giúp tôi đứng dậy sau vấp ngã và đang trên đường hoàn lương.
Trần Hồng Chương