Lương Gia
(Bài dự thi 'Món ăn ngày Tết')
Tôi nhớ ngày ấy, hình như là lúc tôi lên 9, bằng bẵng hơn 10 năm xa quê hương, bố tôi đã đưa tôi về với quê nội, một miền quê trù phú với những lũy tre xanh và cánh đồng bát ngát. Và năm ấy tôi được ăn một cái Tết thật đặc biệt ở quê nội. Tôi vô cùng thích thú và lạ lẫm, được tung tăng trên những cánh đồng lộng gió, được thoải mái vươn mình ra trên những ao sen ngạt ngào hương và còn náo nức thả diều cho đến chập tối mới về.
Hôm ấy là mùng một, nhà bà nội đông lắm, các chú các bác ở xa về rất đông, mâm cỗ được dọn ra với đủ loại món ăn ngày tết, dưa chua này, giò thủ này có cả bánh dầy... Quá chừng món mà ngày ấy tôi chẳng biết tên chúng là gì. Bỗng tôi thấy lạ và buột miệng hỏi: "Nội ơi bộ Tết này mình không ăn bánh chưng hả nội". Bà nội xoa đầu tôi cười: "Có chứ con, đợi một chút để bà kêu chú lấy lên cho". Rồi tôi thấy chú tôi xắn quần bước xuống ao sen trước nhà và vớt lên mấy cái cục đen sì. Tôi hết hồn: "Bà nội ơi, bà nội nói bánh chưng là mấy cái cục đen sì kia hả, ghê chết làm sao ăn được hả bà". "Không sao đâu con, ăn được, ở quê mình người ta hay làm vậy lắm", nội vừa nói vừa nhai trầu bỏm bẻm.
Tôi loay hoay chạy lại xem chú tôi mở bánh. Thật kỳ lạ sau khi rửa sạch bùn và bóc những lớp lá ra, chiếc bánh hiện ra với một màu xanh bóng, không có một chút bùn đất, trông rất hấp dẫn. Trong bữa cơm, tôi rụt rè không dám gắp vào miếng bánh mãi cho đến lúc nội tôi kể cho nghe câu chuyện thời con gái của bà.
Bà kể, ngày xưa quê nghèo lắm, nhà của bà cũng nghèo nữa, ngày Tết chỉ có vỏn vẻn mâm trái cây và vài cái bánh chưng để cúng thôi. Bà thèm bánh chưng lắm mà mãi không thấy cụ tôi mang xuống. Mấy hôm sau, trong lúc đi chăn trâu, bà thấy mệt nên ghé vào hồ sen ở đình làng ngồi nghỉ, lúc ấy ông tôi cũng đang chăn trâu gần đó nên tạt vào hỏi thăm chơi: "Làm gì mà ngôi đây thế, không xem trâu bỏ đi hết rồi kìa". "Đói bụng quá đi không nổi chứ sao", bà tôi lem lẻm trả lời. Rồi thấy ông tôi quanh quẩn bên ao sen rồi lội xuống vớt lên một cục đầy bùn, ông tôi loay hoay mở bên giếng ở đình rồi mời bà ăn, thì ra đó là bánh chưng. Bà tôi thèm lắm nhưng mà sợ dính bùn nên dùng dằng mãi không ăn. Đến khi ông tôi ăn một miếng trước rồi bà mới dám ăn. Bà nói, đó chính là chiếc bánh chưng ngon nhất trong đời mà bà được ăn, và bà đã thương ông từ đó.
Gắp miếng bánh chưng trên đũa, tôi nhìn vào đó và thấy cả một tuổi thơ và quê hương của bà tôi. Đưa miếng bánh vô cắn một cái, hương vị dẻo thơm và ngọt ngào quạnh lấy lưỡi của tôi. Cả nửa tháng nằm dưới bùn, không những không hôi mà vị thơm của bánh như được nồng nàn hơn. Chất nếp của bánh khi luộc đã bủa ra bịt kín hết các ngóc ngách và từ đó nước và bùn không thể tràn vô được và cái lạnh đặc trưng của xứ Bắc đã làm cho chiếc bánh ngày càng bó chắc lại, lưu giữ được cả gần một tháng. Ngày hôm đó tôi đã ăn no căng món bánh chưng của bà.
Tạm biệt bà, tạm biệt quê nội, tôi đã nhớ mãi những cánh đồng đầy gió và con sông xanh ngát lững lờ trôi quanh những mái tranh mờ khói, và đặc biệt là món bánh chưng mà nhờ có nó tôi đã thấy yêu thương ông bà hơn và cả một quê nội đầy nắng gió của mình.
Bây giờ dù nội tôi không còn nữa nhưng cứ mỗi độ xuân về, cầm trên tay những chiếc bánh chưng cha tôi gói, lòng tôi lại thấy xôn xao, thấy thương và nhớ nội của mình nhiều hơn.
Xếp những chiếc bánh lên bàn thờ, tôi thầm ước ở bên kia thế giới ông và bà tôi sẽ được thưởng thức món bánh của quê hương đất nước và cả một tấm lòng yêu thương của tôi xin gửi gắm vào.