Câu chuyện của chị được kể ở một góc Nhà hàng Phố Trăng bên Cửa Đại nhìn ra sông Cổ Cò mà sách Đại Nam nhất thống chí gọi bằng cái tên “Lộ Cảnh giang”, mấy trăm năm trước từng nối mạch giao thương lừng lẫy giữa Cửa Đại (Faifo - Hội An) với Cửa Hàn (Tourane - Đà Nẵng bây giờ).
Nhưng ký ức của chị không ngược dòng thời gian lâu đến vậy, mà chỉ ở đoạn cách đây chừng mấy chục năm. Đó là những buổi gió mưa lạnh lẽo mùa đông trong căn chòi lá một bên biển, một bên sông ở làng chài Cẩm An bên Cửa Đại nghèo khó, nơi một gia đình nghề chài lưới với 6 con người co ro chịu rét và cái đói lặn vào thịt xương. Con thuyền nhỏ xíu của cha không thể rời bờ kiếm mớ cá nhép.
Mấy chị em đội mưa lạnh lóp ngóp đi mót rau đắng, rau chân vịt, rồi bắt vọp, sìa quanh mom sông đắp đổi qua ngày. Có mùa đông lạnh quá, không đủ ấm, mẹ tỉ mẩn kiếm mấy cái vỏ bao cát cũ nối lại làm tấm đắp cho cả nhà, và cắt may thành quần áo cho mấy chị em.
Những ngày trời yên bể lặng, cha dong thuyền về, chị vét mớ cá nhỏ, tranh thủ mua thêm chút ít của các thuyền khác rồi sấp ngửa đội khắp làng trên xóm dưới, lên Hội An để bán kiếm tiền mua gạo. Kể cả những lúc “trúng” nhất, thì bữa ăn của nhà cũng chỉ cháo rau là chính. Là chị lớn, việc học hành từ lâu “nhường” cho mấy đứa em.
Lớn lên một chút, được cha mẹ gả cho một anh cùng làng làm nghề chài lưới, kéo rớ (vó) trên sông, bước ngoặt đời chị chỉ là từ sấp ngửa trên bờ, nay trực tiếp lênh đênh trên sông nước.
Chị không thể quên, đám cưới hôm trước, ngay hôm sau chị đã phải xuống chiếc thuyền nan để chồng dạy... chèo! Chị chèo, chồng quăng lưới. Những đứa con lần lượt ra đời, gánh nặng áo cơm càng trì kéo.
Chị mãi không thể quên cái dạo năm 1991, thằng con nhỏ 2 tuổi bị sốt xuất huyết. Từ trạm xá xã lên Bệnh viện Hội An cấp cứu cho con mà trong người không có đồng bạc dính túi để đi xe lam, chị phải bồng con chạy bộ suốt chặng đường 5 cây số. Và suốt một tuần ở bệnh viện, mẹ con chị sống nhờ những bát cháo trắng từ thiện của người hảo tâm...
Quá khứ đời chị là vậy. Hèn gì, lúc mới bước vào nhà hàng Phố Trăng mênh mông lộng lẫy rộng 5.000 m2 làm từ những ngôi nhà cổ trên trăm tuổi có 106 cây cột được đầu tư tới 20 tỷ đồng này, người ta sẽ thấy một chiếc thuyền nan mỏng manh đơn độc trên khoảnh hồ rộng phía trước nhà hàng. Và trước mặt tôi bây giờ bên bờ sông Cổ Cò thơ mộng nơi khách ẩm thực nhìn ra là một chiếc rớ chìm nổi giữa dòng.
Mới đây, nhà hàng này được chọn đón tiếp trên 300 khách quý dự Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC tại Hội An, trong đó có 21 vị bộ trưởng, có lẽ ít ai để ý tới chiếc thuyền nan và cái rớ ấy. Nhưng với riêng chị, đó là hình ảnh tảo tần nhắc nhở và dạy chị những điều thật lớn...
Không phải chỉ vì đói nghèo, mà khát vọng chiến thắng đói nghèo để làm giàu đã khiến chị và chồng chia tay, vì anh an phận, không thể chia sẻ cùng chị khát vọng ấy.
Một nách 3 con nhỏ, thế là chị tiếp tục cuộc “trường chinh” với từng gánh cá nhỏ lặn lội khắp nơi cùng chốn. Như chị ví von, từ chén (bát) cá, rổ cá bán quanh làng, tới thúng cá đội lên đầu bán ở làng bên, tới gánh cá bán ở Hội An... Rồi khi sắm được chiếc xe máy cà tàng, chị bắt đầu đi về Đà Nẵng, rồi Tam Kỳ (Quảng Nam), “lấn” tới Quảng Ngãi, Bình Định...
Biết bao mồ hôi tưới tắm trên những chặng đường nhọc nhằn của người đàn bà can đảm. Nhưng không chỉ là sức lực, mà cái khiến người đàn bà ấy hơn người là ở trí lực.
Bắt đầu từ con mực. Khi mọi người chỉ quen cách chế biến cổ truyền là xẻ ra phơi khô, thì chị đã nghĩ đến sản phẩm mực ống lột da cao cấp, giá sản phẩm cao gấp rưỡi bình thường.
Đó là năm 1993, sau khi mày mò tìm hiểu và thử nghiệm cách chế biến mới này, vót vét lưng vốn chị mở công ty chế biến Đông An. Thành công vang dội, chị tất tả vào tận Vũng Tàu, Kiên Giang và khắp các vùng biển cả nước thu gom nguyên liệu sản xuất nhưng cũng không đủ để bán.
Được mấy năm, nguồn mực ống cạn dần. Lang thang qua các chợ cá, chị chợt nhận thấy con cá bò người ta bày bỏ ê hề mà chẳng ai dòm ngó. Chị thử mang về, trầy trật tìm cách chế biến.
Xoay xở đủ mọi cách, cuối cùng con cá bò thô kệch sau khi được bỏ đầu và da, lọc thịt, phi lê rồi tẩm ướp gia vị đã đem lại vị lạ và ngon đến bất ngờ. Chị rụt rè mang bán cho những người xung quanh, rồi xa hơn là các tỉnh thành, được ưa chuộng đặc biệt.
Bấy giờ chị bắt đầu thu mua chế biến số lượng lớn và hợp đồng với các đơn vị nhà nước để xuất khẩu (vì khi ấy tư nhân chưa được phép xuất khẩu trực tiếp). Năm 1999, khi có giấy phép, công ty Đông An đã trực tiếp xuất khẩu container cá bò tẩm gia vị đầu tiên sang Nhật. Nhưng một sai sót nhỏ đã khiến phía Nhật không làm ăn tiếp với Đông An.
Không nản, chị vừa “bám riết” lấy đối tác, vừa kiểm tra lại các khâu, và phát hiện ra một lỗi nhỏ. Chị đã kịp “sửa sai” nhanh chóng, và bây giờ, bạn hàng sản phẩm cá bò khô tẩm gia vị của Đông An là hàng loạt những doanh nghiệp lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu của Đông An mỗi năm tới 5 triệu USD. Trong tay chị hiện có 7 xưởng sản xuất với trung bình 3.000 công nhân, chủ yếu là chị em phụ nữ nghèo ở các vùng nông thôn rải dọc từ Hội An, các huyện Quảng Nam tới Quảng Ngãi, mức thu nhập mỗi người trung bình 1 triệu đồng/ tháng.
Chị chợt sôi nổi hơn khi nghe nhắc đến mấy chữ “gia nhập WTO” hiện đang khiến nhiều nhà làm hàng xuất khẩu trong nước bối rối. Chị bất ngờ hóa giải khái niệm “hóc búa” này thật nhẹ nhàng: “Tôi chỉ biết thế này, đó là hàng của mình phải bảo đảm chất lượng và chỉ có chất lượng mới có được bạn hàng. Vì từ lâu khâu kiểm nghiệm vi sinh sản phẩm qua các nước đã khó, giờ lại càng khắt khe. Như cá bò tẩm ướp của Đông An hiện không đủ để xuất, bạn hàng vẫn đòi thêm nhưng tôi không nhắm mắt chạy theo số lượng. Muốn chất lượng tốt, thì khâu nguyên liệu cực kỳ quan trọng. Nếu nguyên liệu không tốt, tôi chấp nhận không cho xuất khẩu. Sự tồn tại và phát triển là do mình tự quyết định...”.
Sống còn với chất lượng và thương hiệu, nên tôi hơi bất ngờ khi biết bà chủ lớn ấy chưa một lần bước chân sang Nhật hoặc các nước để gặp đối tác. Nhưng sau chợt nhận ngay ra rằng, họ đã “gặp” nhau trên chính chữ “tín” và chất lượng của sản phẩm, điều đó cao hơn nhiều những cái bắt tay thông thường.
Ngoài công ty chế biến hải sản Đông An và 2 công ty kinh doanh nhà hàng, khách sạn du lịch, chị vừa mở thêm công ty mới mang tên Đại Thành cũng chế biến hải sản, nhưng với “toan tính” xa hơn về một sản phẩm xuất khẩu mới...
Làng chài Cẩm An xưa, nơi hằn dấu tuổi thơ ảm đạm của người đàn bà ấy bây giờ đã không còn dấu vết. Thay vào chính vị trí túp lều xưa là khách sạn 4 sao Đông An bề thế trên khuôn viên rộng 5.500m2, xây xong năm 2003 với vốn đầu tư 45 tỷ đồng, được điều hành bởi đứa con trai nhỏ ngày ấy nay vừa du học ngành du lịch ở Thụy Sĩ về.
Phía trước ngôi biệt thự của chị sát bên nhà hàng Phố Trăng có một cái quầy hàng nho nhỏ với tấm biển với mấy chữ đơn sơ “Mực khô - Cá bò tẩm”. Đó là nơi bán lẻ từng con mực khô, lát cá bò cho người đi tắm biển bình dân. Dù đã ra biển lớn, nhưng chất tảo tần trong chị vẫn không hề mất đi, như chính cái tên thương khó của chị: Nguyễn Thị Thương...
(Theo Tiền Phong)