Phần tóc còn lại của cô khô, nhưng một đường hằn sâu trên da đầu và cổ chứng tỏ cô đã đội mũ tắm. Cô xoa xoa tóc, cố làm cho khô rồi xoa những ngón tay lên vai áo choàng, lướt xuống đằng trước và dừng lại ở ngực. Cô để tay che kín một phần ngực, những ngón tay tì lên hốc nách. Rồi khi giở trang báo, cô lại nhặt điếu thuốc lên và cầm trong giây lát cho đến lúc đầu điếu thuốc cháy đỏ nhắc, cô hoặc dụi nó đi hoặc cháy ngón tay. Cô đặt xuống gạt tàn lần nữa và lại bắt đầu lau tóc đằng sau gáy.
Ngay sau đó cô đứng dậy và ra khỏi phòng. Khi trở lại, cô mặc độc quần lót và nịt vú. Cô không trở lại bàn mà đứng trên một chân, khuỵu đầu gối kia lên ghế và nhìn ra bên ngoài dãy cửa sổ chạy suốt chiều dài căn phòng. Cô đang trong tư thế ấy thì chuông reo, và cô chạy vào bếp.
- Xin chào... bảo anh ấy lên nhé.
Cô chạy vội vào phòng ngủ, sau đó vừa đi ra vừa kéo chiếc áo len casơmia qua vai. Cô mặc váy bằng vải tuýt, đi tất len mỏng và giày leo núi, lưỡi giày Scotch hơi thò ra. Chuông lại reo, còn cô đã ra đến cửa.
- Chúc mừng. Chúc mừng, chúc mừng, chúc mừng và chúc mừng. Tiểu thư Stannard khỏe không? Tiểu thư Stannard khỏe không?
- Chào Jimmy - cô nói rồi đóng cửa, và ngay lập tức anh chàng kéo cô vào vòng tay.
- Hừm. Không hưởng ứng - anh ta nói rồi ném mũ lên một cái ghế và ngồi phịch xuống trước khi cô ngồi. Anh ra hiệu mời cô thuốc lá, nhưng cô lắc đầu từ chối.
- Anh uống cà phê nhé? - cô nói.
- Ừ, anh sẽ uống một chút nếu ngon.
- Em sẽ pha ngay đây, còn em uống hai tách rồi. Ít ra thì uống cũng được.
- Chà, em cứ pha đi. Anh ngờ rằng em sẽ quẳng ngay cà phê em pha cho mình.
- Vậy anh có muốn uống hay không nào?
- Một ít thôi. Một tách nóng hổi chỉ dành cho quý ông mặc complê xanh thôi.
- Complê xanh thì sao? Anh không mua chiếc Tên-Nó-Là-Gì à? Em cứ tưởng bọn mình sắp về nông thôn - cô nhìn bộ quần áo của mình rồi nhìn quần áo anh ta. Anh mặc complê vải séc màu xanh, cổ áo trắng tinh hồ cứng, đi giày đen. - Anh đã kiếm được việc làm ở phố Wall từ khi em gặp anh lần cuối sao?
- Chưa. Chưa cho cả hai câu hỏi. Anh chưa mua xe của Norman Goodman, chứ không phải Tên-Nó-Là-Gì. Em gặp anh ta vào tối chúng ta đến nhà Michel, và em gọi anh ta là Norman. Còn câu hỏi anh đã kiếm được việc làm ở phố Wall chưa, thì anh không trả lời. Tối qua, Norman gọi điện cho anh nói anh ta phải lái xe đưa bố đi cắt bao quy đầu hoặc cái gì đó.
- Ông ta là giáo sĩ Do Thái ư?
- Ồ không, không phải thế đâu. Bố anh ta không phải giáo sĩ Do Thái, chuyện cắt bao quy đầu là anh bịa ra đấy.
- Thế bây giờ chúng mình làm gì? Em hiểu là anh không mượn được xe của ai. Thật là một ngày đẹp trời để về nông thôn.
- Anh đang sẵn tiền. Anh nghĩ chúng mình đến Plaza ăn sáng, nhưng xem chừng em đã ăn rồi. Anh định đi nghe một bài thuyết giảng, nhưng một ngày đẹp trời như hôm nay thì phải lẩn thôi. Những bài thuyết giảng ấy làm sao phù hộ được cho anh kia chứ. Họ đưa chúng đến văn phòng của anh, và anh chỉ việc sao lại rồi dán lên thôi. Anh chỉ viết lời nói đầu, đại loại như "Nạn suy thoái đã thức tỉnh lòng tin của dân Mỹ, theo lời Cha Makepeace John Meriwether là Đức linh mục nhà thờ Tân Giáo Free Patrick, đừng đánh vần nó với ký tự a nếu không muốn bị mất việc" - Vân vân và vân vân. Cho anh chút kem được không?
- Em e rằng em đã dùng hết kem rồi. Anh dùng sữa nhé?
- Khỉ thật, em có thân hình đẹp quá, Isabel. Đi lại loanh quanh nữa xem nào. Đến bên cửa sổ.
- Không đâu - cô ngồi xuống. - Anh thực lòng muốn gì vậy?
- Không đến Plaza à? Ngay lúc anh đang sẵn xu?
- Sao anh giàu thế?
- Anh bán một thứ cho New Yorker.
- Thật thế ư? Gì vậy?
- À, khoảng một tháng trước khi có việc gần Lăng mộ Grant, anh phát hiện cả khu nhà thuyền này vắt ngang con sông. Dân chúng sống trong nhà thuyền suốt mùa đông dài dằng dặc. Họ có cả bếp gas, điện, đèn, radio, và suốt mùa đông các nhà thuyền này ngự trên các cọc bằng gỗ. Xuân đến, họ kéo thuyền ra khỏi Rockaway hoặc nơi nào đó tương tự và sống ở đấy suốt mùa hè. Anh nghĩ nó sẽ là bài hay cho mục Chuyện của Hội đồng Thành phố, anh đã tìm hiểu kỹ càng và gửi bài đi, thế là hôm qua anh nhận được một tờ séc ba mươi sáu đôla, oách chưa? Họ muốn anh làm nhiều hơn nữa cho họ.
- Anh sắp làm nữa chứ?
- Anh nghĩ thế. Tất nhiên anh không thể viết bài dài, vì có tin hay không tùy em, nhưng anh còn công việc và một cuốn tiểu thuyết.
- Cuốn tiểu thuyết đến đâu rồi?
- Giống như Ông già Noel vậy. Mà em thừa biết Ông già Noel là thế nào rồi.
- Em nghĩ là em sẽ bỏ anh.
- Vĩnh viễn?
- Nói cho khá dứt khoát thì vâng, vĩnh viễn. Một ngày đẹp trời như thế này để về nông thôn - cô đứng dậy và đến bên cửa sổ - Hãy nhìn những người đàn ông kia xem. Em quan sát họ không biết chán.
- Những người đàn ông nào? Ngắm anh quá đủ rồi, chẳng cần phải đứng dậy mà ngắm bọn đàn ông. Em kể cho anh về họ đi.
- Họ nuôi chim bồ câu. Chủ nhật nào họ cũng ở trên mái nhà suốt ngày, xua lũ chim bay đi. Cô hầu của chúng ta nói rằng, một người có đàn bồ câu mười tám con xua chúng đi với hy vọng khi chúng bay về sẽ là mười chín hoặc hai chục con. Một hoặc hai con ở đàn khác bị nhầm, sẽ nhập vào đàn đó và tăng số lượng đàn chim của ông ta lên. Như thế không gọi là ăn cắp.
- Nhưng em không đi ăn sáng ở Plaza ư?
- Em ăn rồi, và em cược là anh cũng thế.
- Coi như là thế. Nước cam, bánh mì nướng phết mứt, cà phê. Anh muốn chúng mình ăn bầu dục và món nhồi, trứng ốp la, khoai tây rán. Giống người Anh. Nhưng nếu em không muốn thì thôi vậy. Anh chỉ muốn vui, hay ít ra là đổi khác.
- Để lần khác. Nhưng để em mặc quần áo, rồi chúng ta tiêu tiền của anh theo kiểu khác, nếu anh vẫn muốn thế.
- Anh quên mất là còn nợ em mười đôla.
- Trước hết chúng ta hãy tiêu từng ấy. Giờ em đi mặc quần áo nhé.
Jimmy cầm mấy tờ báo lên.
- Times này! - anh kêu to. - Em chưa bao giờ đọc bài của anh trên Times. Đúng không? - Nhưng cô đã khép cửa phòng ngủ lại. Mươi phút sau cô xuất hiện.
- Ái chà. Đẹp quá. Rất đẹp. Hừm.
- Anh thích không?
- Nó là bộ đẹp nhất anh được thấy. Cả cái mũ nữa. Một cái mũ rất xinh. Anh thấy năm nay mũ mãng của các cô gái đẹp hơn hẳn mọi năm. Đáng yêu kinh khủng. Anh đoán họ phải làm mũ theo kiểu gì đó.
- Em cho là còn phải làm nhiều việc với mớ tóc của em. Tóc em vẫn còn ẩm, trông rối như tổ quạ, mà lỗi tại anh đấy. Nếu biết chúng ta không về nông thôn, em đã không tắm làm gì. Tắm kỹ quá làm em ướt hết cả tóc. Nhớ nhắc em tạt qua hiệu thuốc...
- Em yêu, rất vui lòng!
- ... để mua một cái mũ tắm cho tử tế. Jimmy à, trước khi đi, em muốn nói với anh lần cuối, anh đừng nói những điều như thế với em nữa nhé. Em không phải nhân tình của anh, cũng không phải gái đứng đường và em không quen trò chuyện kiểu ấy. Chẳng vui vẻ gì, và chưa có ai nói chuyện với em như thế. Anh thường trò chuyện với đám phụ nữ ở báo kiểu ấy à? Em chắc họ cũng chẳng thích đâu. Anh có thể khen ngợi bộ áo của em mà không cần đi sâu vào chi tiết thân hình em, và...
- Vậy anh nên nhân danh Chúa nhé? Cả ý tưởng về bộ áo thể hiện thân hình em nữa? Tại sao nó đẹp thế trên người em? Vì em có bộ ngực và nhiều thứ khác nữa rất đẹp. Giờ thì Chúa nguyền rủa, tại sao anh không nên nói như thế?
- Em nghĩ anh nên đi đi thôi - cô bỏ mũ và ngồi xuống.
- Thôi được, anh sẽ đi - anh cầm mũ và nện bước xuống tiền sảnh hẹp ra cửa căn hộ. Nhưng anh không mở cửa. Đặt tay lên quả đấm, anh xoay người và quay lại.
- Em không nói gì đâu đấy. - cô nói.
- Anh biết. Em không nhúc nhích. Anh biết. Em biết anh có thể không ra khỏi cửa này hơn là ra ngoài các cửa sổ kia. Em có vui lòng tha thứ cho anh không?
- Rồi sẽ lặp lại y như thế, lại vẫn cung cách ấy, sự việc ấy, lý do ấy. Rồi anh sẽ trở lại xin em tha thứ, và em sẽ bỏ qua cho anh. Mỗi lần em làm thế, Jimmy ạ, em lại căm ghét bản thân. Không phải vì việc bỏ qua cho anh, mà vì em ghét những lời lẽ ấy, ghét trò chuyện kiểu ấy, và em biết, em biết lý do duy nhất anh nói với em kiểu ấy vì em là loại con gái để anh nói kiểu ấy, chính vì thế mà em hận. Anh phải hiểu điều đó.
- Em yêu, không phải thế đâu. Em không phải loại con gái nào hết. Em là em, Isabel ạ. Em không tin anh khi anh nói với em những lời vẫn thường nói ư? Chúng ta làm gì không quan trọng, song bất cứ khi nào nhìn thấy em như thế này, trong buổi sáng, giữa ban ngày có nhiều người khác, anh không thể tin nổi em là của anh. Hoặc từng là của anh. Em mặc bộ áo và đội cái mũ này xinh lắm. Anh tiếc là đã nói kiểu ấy.
- Anh không nói với Lib kiểu ấy. Hoặc với Caroline.
- Anh chẳng trò chuyện với họ theo bất cứ kiểu gì. Anh không muốn bị quấy rầy. Đi nào, kẻo anh lại nói cái gì sơ suất chăng.
- Thôi được, hôn em đi. Đừng khó chịu nữa - cô chìa tay và anh kéo cô đứng lên, cho đến lúc cô dựa sát vào anh.
- Anh phải hôn em thật mãnh liệt. Anh mà không hôn em mãnh liệt sao? Không thể có chuyện đó - anh cười.
- Không hẳn thế - cô nói - Nhiều lần rồi đấy thôi - cô cười.
- Giờ anh không muốn đi nữa - anh nói.
- Chúng ta đi thôi. Để em tìm chìa khóa - cô lục chiếc xắc tay - Son môi này. Em thoa một chút. Đưa em khăn mùi soa của anh nào.
Anh mở và giữ cửa cho cô, bàn tay rảnh làm như muốn vỗ mạnh vào lưng cô song không dám chạm vào. Cô bấm chuông gọi thang máy, sau khi rên rỉ và kêu vo vo một lúc, cánh cửa mở.
- Chào cô Stannard - người gác thang máy nói.
- Xin chào - cô nói. Họ bước vào và buồng thang máy bắt đầu hạ xuống, nhưng được một tầng thì dừng lại, một ông và một bà bước vào. Người đàn ông cao đúng bằng người đàn bà, vì thế trông có vẻ thấp hơn.
- Chào ông Farley, chào bà Farley - người gác thang máy nói.
- Xin chào - ông bà Farley nói.
Không ai nói chuyện với ai. Họ nhìn vào vai người gác thang máy. Xuống đến tầng trệt, Isabel mỉm cười để bà Farley ra trước, cô theo sau, rồi ông Farley gật đầu ra hiệu bằng mắt cho Jimmy ra trước, và rõ ràng là ngạc nhiên khi Jimmy ra trước thật. Ông bà Farley đi ra cửa trước họ; người gác đứng đó, mở cửa ôtô cho họ. Chiếc ôtô Packard bốn chỗ bỏ mui, loại thể hiện quyền thế, chẳng hề giống loại xuồng cao tốc kêu ùng ục trong nước chút nào.
- Ai mà tưởng được rằng chúng mình phải cuốc bộ trong khi cái lũ rác rưởi kia cưỡi ôtô như thế. Không sao, mọi sự rồi sẽ thay đổi, tất cả sẽ thay đổi. Anh đoán em biết là ai to mồm nhất ở quảng trường Union hôm kia.
- Em nghĩ là em biết - Isabel nói.
- Anh không thích giọng điệu của em. Không hiểu sao anh không hẳn thích giọng của em. - anh ta bắt đầu huýt sáo còn cô hát: "Hãy đưa em trở lại Manhattan, thành phố cũ thân yêu, bẩn thỉu".
Ở đại lộ Madison, họ suýt bị chiếc taxi Paramount to tướng tông phải. Bị Jimmy chửi, người tài xế nói: "Xéo đi, tao nhổ vào mắt mày" - Cả Isabel và Jimmy nghe rõ ràng người khách duy nhất, một cô gái mặc áo lông thú, bảo người lái xe:
- Cho qua, nhổ vào mắt bọn chúng.
Chiếc ôtô bật đèn và lao nhanh về hướng nam Madison.
- Một cô gái đẹp - Isabel nói - Anh quen cô ta không?
- Làm sao anh quen? Rõ ràng cô ta là người vùng lân cận. Chúng ta không nói năng kiểu ấy ở thành phố cũng như ở làng quê.
- Lẽ tất nhiên là không, trừ việc em thấy chiếc xe đó đang vội vã tiến vào khu thương mại.
- Đúng thế. Rồi cái đôi vợ chồng cáu kỉnh trong thang máy nữa chứ. Một quý ngài đeo kính và vợ ông ta. Anh cuộc lúc này họ đang cãi vã nhau trong chiếc xe đẹp đẽ, to bự ấy. Thà anh quen cô gái hét từ taxi: "Nhổ vào mắt bọn chúng", còn hơn hai con người lịch sự không chịu lùi trước người khác lấy một giây.
- Đấy chính là chỗ khác nhau giữa anh và em. Em thà sống trong khu vực này của thành phố, nơi con người ít ra cũng...
- Anh không nói đến việc sống với họ, hay họ là hàng xóm. Anh chỉ nói thà anh quen loại con gái kia còn hơn những người này. Anh chỉ nói thế thôi.
- Em vẫn giữ nguyên ý kiến. Đúng hơn là em biết người đàn ông ấy và vợ ông ta. Đơn giản là tình cờ em biết họ là ai. Ông ta là một kiến trúc sư.
- Còn anh chẳng cần biết họ là ai, mặc kệ cả cô gái kia là ai.
- Một cô gái mặc áo lông chồn vizon trong một ngày như thế này. Cô ta là loại rẻ tiền.
- Phải, chiếc áo lông chồn cho thấy chắc hẳn cô ta đã có thời phong lưu.
Jimmy im lặng vài giây rồi tiếp:
- Em biết anh nghĩ gì không? Không, em không biết đâu. Nhưng anh sẵn sàng nói nếu em hứa sẽ không buồn chán?... Anh chỉ nghĩ giữa chúng ta có một sức hút mạnh về xác thịt, nếu không thì sao chúng ta cứ tiếp tục gặp gỡ nhau khi cãi vã nhiều đến thế?
- Anh nghĩ lại mà xem, thực ra chúng ta chỉ cãi nhau vì một lý do duy nhất, là cách anh nói chuyện với em thôi.
Jimmy nín lặng, và họ lặng lẽ đi tiếp qua vài khối nhà.
Còn tiếp...
(Trích Áo khoác lông chồn, tác giả John O'Hara, Nxb Văn Hoá Sài Gòn ấn hành)