Chị Tu., vợ anh, qua những cơn khủng hoảng đã lấy lại được sự bình tĩnh, cô con gái 14 tuổi cũng đang tập làm quen với nghịch cảnh. Nhưng đến nhà họ, lại cảm thấy một vị đắng chắc sẽ còn tồn tại rất lâu trong khu xóm nhỏ. Bảy năm về trước, bé Q., con gái của anh N. (TP Biên Hòa, Đồng Nai), mới chỉ là một cô bé 7 tuổi. Một lần đang lững thững dạo chơi trong xóm bé bị một người đàn ông bằng tuổi ông nội mình bế vào lòng, vuốt ve, cưng nựng với ý đồ xấu. May mắn có người hàng xóm trông thấy, la lớn lên, cha mẹ bé chạy ra và mọi việc dừng lại ở đó. Thời gian trôi qua, chuyện không vui đã lùi vào quên lãng, cô bé lớn lên hồn nhiên và xinh tươi, mọi chuyện quanh em không chút nào vướng bận. Thế nhưng, vì một chút xích mích trẻ con giữa hai đứa bé mới vừa vào lớp 1 (một là em trai Q., một là cậu bé ở cùng xóm, học cùng lớp) mà cô T. ở nhà đối diện bỗng nhiên sinh ra thù ghét gia đình em. Cô ta chửi bới, khiêu khích. Cô ta chờ Q. ôm cặp đi học bước ngang là chỉ trỏ, khơi lại chuyện ngày xưa một cách xuyên tạc và áp nó vào tương lai của em. Hai mẹ con nhẫn nhục chịu đựng không được, nói chuyện phải trái không được, chỉ biết về nhà ấm ức. Q. sinh ra hoang mang, thắc mắc về câu chuyện ngày xưa, cứ hỏi mẹ mãi rồi mặc cảm bỏ ăn, bỏ học. Chị Tu. đau lòng, quyết tâm bảo vệ con nên viết đơn trình bày sự việc với công an và chính quyền địa phương nhờ can thiệp. Biết có đơn lên công an, sự thù nghịch của T. càng lồng lộn, những cuộc chửi bới diễn ra trước cửa nhà chị Tu. om sòm và cay độc hơn bao giờ hết. Một buổi tối, chị ta lại đứng trước cửa và tiếp tục màn độc diễn. Tối ấy anh N. có ở nhà. Thấy con gái khóc lóc, ủ rũ, thấy vợ buồn bực phát bệnh, dù đã khuyên nhủ cả nhà kiên nhẫn và bình tĩnh chờ chính quyền xử lý nhưng lúc ấy anh N. không thể không làm nhiệm vụ của một người chủ gia đình. Bước ra nói chuyện phải trái nhưng anh chỉ nhận lại được những tràng chửi rủa độc địa, những câu thách thức, khiêu khích. Không nín nhịn được nữa, N. vung tay lên, cái đồng hồ trên tay anh văng vào mặt T. Giám định pháp y kết luận “gãy xương chính mũi, tỷ lệ thương tật 12% tạm thời”. Anh N. xin lỗi và bồi thường 3 triệu đồng nhưng gia đình T. không đồng ý, đòi bồi thường thêm. Thỏa thuận không đạt được, sự việc được đưa ra tòa. Tòa sơ thẩm thành phố Biên Hòa tuyên phạt N. sáu tháng tù về tội “cố ý gây thương tích”. Anh kháng án, xin cấp phúc thẩm xem xét lại về trường hợp bị kích động mạnh dẫn đến hành vi phạm tội, xem xét hành vi trái pháp luật của chị T. Kèm theo đơn kháng án là các biên bản lời khai của xóm giềng, những người đã chứng kiến T. chửi bới chị Tu., xúc phạm nhân phẩm bé Q., kiến nghị của hội phụ nữ, công an phường đề nghị xử lý hành vi của T. Nhưng tòa phúc thẩm lại vẫn kết luận: “Bị cáo trình bày việc bị hại liên tục xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm con gái và vợ chồng bị cáo... Quá trình tố tụng cấp sơ thẩm, cơ quan điều tra và truy tố chưa làm rõ nên cấp phúc thẩm không đủ chứng cứ kết luận bị hại có lỗi nghiêm trọng dẫn đến bị cáo bị kích động mạnh về tinh thần”. Tòa phúc thẩm tuyên y án. Chị Tu. đổ bệnh nặng, anh N. mất việc ở công ty và được cho phép hoãn thi hành án ba tháng để chăm nuôi vợ nằm viện, chăm sóc Q. thi tốt nghiệp cấp II rồi thi vào lớp 10. Cậu con trai học lớp 1 cứ hỏi mãi: “Bạn con nói má nó đã cho ba vào tù, phải không?”. Cảnh nhà buồn như chưa khi nào buồn hơn. Và những ngày này, giấy gọi thi hành án đã được gửi đến nhà, anh N. vẫn cố lái những chuyến xe hàng thêm ngày nào hay ngày ấy để làm tròn vai trò lao động chính trong gia đình. Chị Tu., bé Q. vốn đã lặng lẽ lại càng lặng lẽ hơn, ngồi trong nhà mà cứ thon thót liếc sang nhà hàng xóm. Chị bảo không có tiền nhưng dù gì cũng phải tính đến chuyện dời nhà, tìm một khu xóm khác với những người láng giềng khác “để thằng bé được tự do chơi đùa, để con gái không phải e ngại, sợ hãi”. Đó mới chính là điều phải lo lắng, suy nghĩ nhất, hơn cả án phạt tù. Sự bình yên rất lớn mà người ta đáng ra phải có khi bước về khu xóm quen thuộc của mình đã mất đi, tình xóm giềng tối lửa tắt đèn đã mất đi, chỉ còn lại tai họa. Chị Tu. rầu rĩ : “Trước giờ tôi vẫn xem gia đình bên đó là ân nhân, chính chồng cô ta là người đã phát hiện sự việc ngày xưa nên bé Q. không bị hại. Ai ngờ bây giờ lại xảy ra chuyện thế này”. Những người dân trong khu phố kể: “Chúng tôi nghe chị T. vô cớ xúc phạm cháu Q., ai cũng phẫn nộ mà không biết làm thế nào, vì tính tình chị ta rất quá quắt không ai muốn dính líu”. Lá đơn kiến nghị của hội phụ nữ phường viết: “Là một người phụ nữ đã có gia đình, lẽ ra chị T. phải thấu hiểu, thông cảm, sẻ chia với nỗi đau tinh thần mà một cháu bé đã phải chịu đựng từ sự việc xảy ra cách nay bảy năm. Vậy mà chị lại vô cớ vu khống, nhiều lần cố ý nhục mạ nhân phẩm cháu Q. bằng những lời lẽ cay độc trước mặt mọi người... Hành vi đó của chị T. là không thể chấp nhận được”. Công an phường cũng viết trong biên bản: “Đã mời chị T. lên làm việc, nhưng với thái độ quanh co, chối cãi, coi thường pháp luật, cô T. không thừa nhận việc làm sai trái của mình mà còn ngang ngược, kiêu ngạo, chửi bới, bỏ về, gây khó khăn cho công an không thể ghi được lời khai”. “Phải dọn nhà đi thôi”, chị Tu. cứ nhắc đi nhắc lại dù rằng chị vẫn còn chưa biết mình sẽ dựa vào khoản thu nhập nào để sinh hoạt, đóng tiền học cho con trong thời gian anh N. thi hành án. Hẳn nhiên rồi trong gia đình họ cơn bão cũng sẽ qua đi, nhưng cái hố sâu ngăn cách giữa hai nhà đối diện sẽ chẳng bao giờ liền lại được, vị đắng trong tình nghĩa xóm giềng cũng sẽ không thể mất đi. (Theo Tuổi Trẻ) |