- Là người làm sử, ông thấy văn hóa thưởng trà của dân tộc Việt bắt nguồn từ đâu ?
- “Trà Kinh” của Lục Vũ (viết từ năm 760 thời nhà Đường) cho rằng, chính Thần Nông (Viêm Đế) là người nhận diện đầu tiên giá trị của cây trà (chữ nôm đọc là chè) khi viết rằng: “Thần Nông thưởng bách thảo, nhật ngẫu thất thập nhị độc, đắc trà nhi giải chi” (Thần Nông nếm hàng trăm thứ cỏ, có ngày gặp 72 loại cỏ độc, uống chè là giải độc được).
Về mặt địa lý, Trung Hoa và Việt Nam núi liền núi, sông liền sông, nhưng về căn bản cây trà vẫn thuộc một chủng loại. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có thể khác về tập quán, cách trồng, cách chế và cách thưởng thức trà nhưng vẫn gần gũi nhau trên một nền văn minh Đông Á mà Trung Hoa là cái nôi, còn những vùng miền khác là sự bổ sung tính đa dạng, phong phú.
- Ngoài yếu tố văn hóa, tác dụng chữa bệnh của thảo mộc đã được nhìn nhận. Vậy, mối quan hệ giữa bảo tồn văn hóa và kinh doanh có phải là thách thức?
- Theo tôi, trong xã hội hiện đại thì lợi ích của doanh nghiệp có sự hợp tác chia sẻ nhưng cũng có cạnh tranh gay gắt. Bởi thế, phải nghĩ xem vị thế thức uống mà các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất nằm ở đâu trong cuộc cạnh tranh đó. Xác định được điều này sẽ cho thấy giá trị đích thực của sản phẩm từ góc độ sinh học của nguyên liệu, dinh dưỡng và tác dụng y dược...
Trong bối cảnh hiện tại, khi lợi ích của doanh nghiệp đòi hỏi sự nỗ lực giành thị phần để tiêu thụ sản phẩm, thì những phân tích trên quan điểm của kinh tế thị trường là cần thiết. Tuy nhiên, là một người làm sử, tôi muốn tiếp cận từ góc độ văn hoá của những hoạt động kinh tế khi nó liên quan đến những tập quán, truyền thống và những nhu cầu cách tân trong đời sống xã hội.
- Theo ông, thói quen ưa dùng hàng ngoại của người Việt có làm nản lòng doanh nghiệp trong nước?
- Nói về một xu thế, một định hướng mà giờ đây trở thành một chủ trương mang tính Nhà nước với sự hưởng ứng của các doanh nghiệp là cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, thì có rất nhiều doanh nghiệp cùng những sản phẩm của họ đang tạo cho tôi một suy nghĩ từ những quan điểm kinh doanh thể hiện trong định hướng quảng bá sản phẩm.
Ông cha ta đã từng nhận ra thói “sùng hàng ngoại và khinh hàng nội” và tìm cách vượt qua. Sử chép, tháng 2 năm Canh Dần (1040), tức là chỉ 30 năm sau khi rời đô ra Thăng Long, Lý Thái Tông - người kế nghiệp Lý Thái Tổ đã xuống chiếu ban hết vải vóc của phương Bắc đang có trong kho tàng của triều đình, để rồi ra lệnh từ đó trong triều chỉ được ban phát hay sử dụng hàng do trong nước sản xuất. Đồng thời, khuyến khích các làng nghề sửa sang công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm (như cách nói bây giờ), tạo ra những điều kiện cho nền kinh tế trong nước phát triển hưng thịnh.
Sau này, công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước đòi hỏi phải thực hiện những cam kết dựa trên giá trị phổ quát của thế giới thì điều đó lại trở thành một thách thức cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của những doanh nghiệp, sản phẩm cụ thể nói riêng.
- Đề cập đến “định hướng quảng bá sản phẩm” có phải là ông muốn nhắc tới một triết lý kinh doanh hay một doanh nghiệp cụ thể nào?
- Đúng vậy, tôi muốn nói đến cả hai. Tôi đã có dịp tiếp cận với Tân Hiệp Phát và nước uống mà doanh nghiệp này làm ra như trà thảo mộc Dr Thanh, Trà xanh không độ... Tôi rất tự hào khi người Việt có một thương hiệu trà nổi tiếng, được người tiêu dùng yêu mến. Ngoài ra, có một sự kiện cách đây mấy năm dành cho giới trẻ khiến tôi khó quên, đó là chinh phục đỉnh Everest mà công ty này tài trợ. Khi “khách hàng” đồng nghĩa với “Thượng đế”, thì cái cao hơn việc chinh phục đỉnh núi chính là chinh phục khách hàng. Chính lập luận này đã dẫn đến một triết lý mà Tân Hiệp Phát đã định hướng cho mình là “Hàng Việt Nam chinh phục khách hàng Việt Nam”.
Triết lý này cho thấy sâu sắc hơn mục tiêu mà chúng ta đang phấn đấu là “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tôi cho rằng, những mục tiêu mà Tân Hiệp Phát nói riêng và nhiều doanh nghiệp khác nói chung đã và đang hướng tới trong hoạt động kinh doanh sẽ có một tiền đồ tốt đẹp.
Cẩm Ly