![]() |
Nếu dùng tiền vay không có hiệu quả hoặc lãng phí dĩ nhiên là con cháu sau này phải gánh chịu. |
Sau khi tường thuật sự kiện PMU18, tờ báo đã bình luận: “Quan chức ở các bộ tại VN lương tháng chỉ có vài trăm USD, vậy họ lấy tiền ở đâu mà nhiều vậy? Người ta nghi rằng một phần tiền ODA đã vào túi các quan chức...”.
Sách trắng kinh tế, người Nhật đồng tâm trả hết nợ nước ngoài
Đọc tin này có lẽ người Nhật sẽ rất ngạc nhiên và nhớ lại trường hợp của họ khoảng 60 năm về trước. Giữa cảnh hoang tàn, đổ nát do chiến tranh gây ra, họ đã trên dưới một lòng chung sức tìm biện pháp xây dựng lại cơ sở hạ tầng, khôi phục sản xuất, ổn định xã hội.
Những nhà kinh tế, kể cả những kinh tế gia Mácxít, không phân biệt quan điểm, lập trường, đã bắt tay vào việc điều tra thực tế và tìm kiếm những chiến lược khả thi. Dựa trên kết quả đó, năm 1947, chính phủ đã công bố cuốn Sách trắng kinh tế (White Paper, phân tích thực trạng kinh tế), trong đó có một câu mà bây giờ người Nhật vẫn nhắc đến như biểu tượng của sự thành thật từ phía lãnh đạo về việc nhận định tình hình để kêu gọi toàn dân chung sức: “Bây giờ chúng ta đang ở trong tình trạng mà nhà nước thì thâm hụt ngân sách, xí nghiệp thì làm ăn thua lỗ và nhà nhà đều thiếu ăn thiếu mặc”. Cùng với sự phân tích một cách khách quan và tích cực cho dân biết hết kết quả là phong cách làm việc vì nước quên mình của giới quan chức. Nhờ đó toàn dân tin tưởng vào nhà nước, tạo ra khí thế cả nước đồng lòng góp sức vào việc phục hưng kinh tế.
Sách trắng kinh tế cho thấy cả ba chủ thể kinh tế đều thiếu hụt thì không còn cách nào khác là phải vay mượn từ nước ngoài. Từ năm 1946 đến 1951, Nhật đã nhận viện trợ không hoàn lại từ Mỹ, số tiền này được quản lý chặt chẽ và chỉ dùng để nhập khẩu những nguyên liệu cần thiết cho sản xuất. Từ 1949-1961, Nhật vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Mỹ để dùng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và để phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu như sắt thép, xe hơi, hàng không... (thời đó đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa phổ biến).
Tuy nhiên Nhật tìm cách huy động vốn trong nước, hạn chế số tiền vay từ nước ngoài, lúc vay nhiều nhất (năm 1958) số tiền cũng chỉ chiếm có 5% tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Với tinh thần yêu nước và quyết tâm đuổi kịp các nước Âu Mỹ, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình của đội ngũ quan chức nhiều năng lực (vì được thi tuyển nghiêm túc), tinh thần doanh nghiệp và sự hăng say làm việc của mọi tầng lớp, kinh tế Nhật đã hồi phục và phát triển một cách kỳ diệu:
Năm 1955 sản xuất đã hồi phục ở mức cao nhất của thời kỳ trước chiến tranh và kinh tế bước vào giai đoạn phát triển thần kỳ. Năm 1964, Nhật trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), một tổ chức của các nước công nghiệp tiên tiến. Dĩ nhiên trong quá trình đó, Nhật đã trả hết nợ nước ngoài.
Việt Nam, vay trả - trả vay, mỗi năm phải trả nợ 2 tỷ USD
Trở lại trường hợp của nước ta. Không kể các khoản nợ của Liên Xô cũ, VN đã bắt đầu nhận viện trợ từ các tổ chức quốc tế và các nước tiên tiến từ năm 1993. Riêng trong kế hoạch năm năm vừa qua (2001-2005), ODA lên tới 7,8 tỷ USD, chiếm 12% tổng vốn đầu tư (ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài là 10,8 tỷ, chiếm 17%).
Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006-2010, VN phải trả nước ngoài 10-11 tỷ USD nợ quốc gia, nghĩa là mỗi năm phải trả 2 tỷ. Hiện, tổng nợ nước ngoài vào khoảng 20 tỷ USD.
Tuy các món nợ trên không ngoài khả năng thanh toán, song cùng với những sự cố “bất minh” (không chỉ) ở PMU18 đang ầm ĩ, nhất định đã đến lúc nhìn lại vấn đề nợ nước ngoài một cách sòng phẳng hơn.
Các chuyên gia nước ngoài thực hiện dự án “Tăng cường quản lý nợ nước ngoài hiệu quả và bền vững” cho VN đã than: “Số liệu sẵn có vào thời điểm biên soạn báo cáo này thiếu chính xác, không kịp thời, thiếu toàn diện và nhất quán về định nghĩa”! Điều đó có nghĩa là bằng vào sổ sách các cơ quan đang lưu giữ, chẳng ai nắm chắc được cơ quan nào đang nợ bao nhiêu, nợ tổ chức nào..., y hệt chuyện xe cộ đem cho mượn của PMU 18 chẳng ai biết.
Trong thời gian từ năm 1997-2001, số giải ngân về nợ nước ngoài đạt mức trung bình là 1,199 tỷ USD/năm, trong khi đó số tiền chi trả nợ đáo hạn cả gốc và lãi là 1,120 tỷ USD/năm. Cũng thế, nếu so sánh số ODA được giải ngân và số nợ trả hằng năm, nhất là từ 2006-2010 mỗi năm sẽ trả nợ hơn 2 tỷ USD, thì sẽ thấy “nợ vay về không tầy nợ phải trả”. Vay trả, trả vay là trong ý nghĩa đó.
Các “con nợ” là ai? Chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nợ Chính phủ ở đây là của Chính phủ nói chung và liên quan đến nợ của các cơ quan chính phủ đi vay trực tiếp rồi cho các DNNN vay lại. Nợ của các DNNN là các khoản nợ đi vay trực tiếp hay được Chính phủ bảo lãnh.
“Con nợ” còn lại là các FDI. Không phải công ty nước ngoài nào cũng trường vốn, có sẵn vốn mà đem đầu tư. Biểu đồ dưới đây cho thấy Chính phủ là “con nợ” lớn nhất với tỷ trọng trung bình là 65,4%, kế đến là các DNNN và cuối cùng là các doanh nghiệp FDI (xem biểu đồ).
Các tác giả của “Tăng cường năng lực quản lý nợ nước ngoài hiệu quả và bền vững” đưa ra một nhận xét đáng lưu ý: “Trong những năm 2000-2001, tỷ trọng này (nợ của Chính phủ) đã tăng đều đặn lên hơn 75%. Nợ của các DNNN có xu hướng giảm với tỷ trọng trung bình là 7,4%. Nợ của các doanh nghiệp FDI cũng có xu hướng giảm với tỷ trọng trung bình là 27,2%”.
Trong thực tế, vụ bán trái phiếu quốc tế vay 750 triệu USD cho Vinashin vào năm ngoái có thể vừa được xem như là một cách huy động vốn vay mới, vừa được xem như là một khởi đầu cho xu hướng Chính phủ vay ngày càng tăng.
Có nhiều thái độ khác nhau trước sự kiện này. “Lạc quan”, do xa lạ với các thị trường tài chính thì hào hứng: kinh tế ta khá, tăng trưởng ta khá, uy tín ta khá, nên thiên hạ sẵn sàng cho vay. Quen thuộc với các diễn biến thị trường tài chính thì “bình thản” hơn: chuyện vay và được vay là bình thường khi anh chưa có tên trong danh sách “nợ xấu”, nhất là khi anh có cả một nhà nước bảo lãnh trả nợ.
“Thận trọng” thì đặt câu hỏi: liệu đã kiểm toán đủ dự án xin vay đó hay chưa (tỷ như báo giá như thế có chính xác hay không), liệu đã lượng giá đủ năng lực doanh nghiệp đó hay chưa, kể cả năng lực liêm chính cần kiệm? Công việc lượng giá đó có độc lập và khách quan đủ hay không?
Trong góc độ người dân thường, không dính dáng gì đến Vinashin, không cùng lợi ích, không thể không đặt câu hỏi: lãi suất 7,15%/năm, vay 750 triệu USD trong 10 năm, trả lãi bao nhiêu? Thời gian như tên bắn. Cuối tháng ba này, các chủ nợ ở New York đã lãi khoảng... trên 26 triệu USD sau sáu tháng, nếu tính hết thời hạn cho vay 10 năm, số lãi phải trả sẽ là 536 triệu USD (lãi đơn). Bất cứ ai mua nhà trả góp chỉ với 1%/năm, đều có thể kiểm nghiệm bằng thực tế trả lãi của mình.
Tất nhiên, tình hình nợ của VN đang ở mức độ có thể quản lý được nhờ vào nền kinh tế VN đã đạt được các kết quả tốt trong một vài năm qua, với việc đạt được mức tăng trưởng GDP cao, tỷ lệ lạm phát thấp, xuất khẩu tăng... Thế nhưng, cũng cần nhắc đến một lý do khác, rất quan trọng, không thể xem nhẹ. Đó là vận hội mà VN đã được hưởng để nay có thể ung dung vay nợ qua ba đợt miễn giảm nợ của nước ngoài trước đây.
- Xử lý nợ chính thức qua Câu lạc bộ Paris. Trong thời gian bốn năm từ 1993-1997, VN đã đàm phán song biên với các chủ nợ thành viên Câu lạc bộ Paris. Tổng số nợ được giảm là 745 triệu USD, tương đương 60% số nợ.
- Xử lý nợ các ngân hàng thương mại thông qua Câu lạc bộ London. Kết quả giảm được 53% nghĩa vụ nợ của VN, tương đương 445 triệu USD. VN đã thay thế 542 triệu USD của khoản nợ thuộc Câu lạc bộ London bằng trái phiếu Brady với thời hạn đáo hạn từ 15-30 năm. Vào ngày 30/9/2002, VN đã mua lại số trái phiếu Brady trị giá 160 triệu USD.
- Xử lý nợ với Liên bang Nga. Đây là khoản nợ cũ lớn nhất của VN. Sau tám vòng đàm phán kể từ 1994-2000, hai bên đã thỏa thuận và ký kết hiệp định xử lý nợ tổng thể của VN với Liên Xô (cũ), giảm nợ ngay 85% tổng nợ cũ, tương đương 9,3 tỷ USD. Số nợ còn lại phải trả trong 23 năm với 10% trả bằng tiền mặt và 90% bằng hàng hóa xuất khẩu.
Tất nhiên, không ai nhìn lại quá khứ mà đặt giả thiết “Nếu không có mấy vụ đàm phán đó... giờ này chắc đổ nợ!”. Song, nếu không nhìn lại và ghi khắc vận hội có một không hai đó của giai đoạn bắt đầu chuyển đổi thì sẽ dễ “mặc áo gấm, che lọng đi đêm”.
Gần đây nảy sinh mâu thuẫn giữa các quan chức của ta và các chủ nợ. Các quan chức than miết là các thủ tục của các chủ nợ rườm rà quá nên chậm giải ngân, song vẫn nhìn nhận rằng có không ít dự án của ta “cân đong đo đếm” chưa chính xác nên chưa đủ thuyết phục. Các nhà tài trợ thì đòi hỏi các dự án phải được tính toán nghiêm ngặt hơn để tránh những “vung tay quá trán”.
Bởi thế mới đòi hỏi điều gọi là “kế hoạch hành động hài hòa”. Qua năm nay, các chủ nợ đưa các khoản tài trợ vào trong ngân sách và tài trợ theo lĩnh vực hay mục tiêu chứ không dàn trải kiểu “hoa thơm, tất cả cùng hưởng”. Song song, các tổ chức quốc tế cũng khuyến cáo công khai ngân sách. Một khi ngân sách được công khai đúng các chuẩn mực quốc tế sẽ dễ lượng giá, kiểm tra hơn.
Công khai ngân sách đã bắt đầu nghe nói đến. Thế còn công khai nợ nước ngoài? Nhất định đã đến lúc công khai nợ nước ngoài. Trả mỗi năm 2 tỷ USD nợ nước ngoài là nhiều hay ít? Có nhiều cách giải đáp. Có ý kiến cho rằng khi nợ ở khoảng 25-30% GDP thì không sao, thậm chí ở mức 35% GDP như hiện nay vẫn chưa vào “vùng dông bão”.
Thế nhưng, nếu chia bình quân cho 44 triệu người trong tuổi lao động, bài toán sẽ là khác, từ góc độ người lao động: họ phải lao động năng suất ra sao để mỗi năm bình quân dôi ra được 45 USD/người đặng đóng thuế trả nợ nước ngoài, chưa kể đóng các khoản thuế chi cho các việc khác. Trong góc độ đó sẽ là một bài toán lớn, nhất là khi vẫn còn trên 20 triệu người trong chuẩn nghèo.
Ở mọi nước con nợ, con đường vay nợ trong những năm đầu lúc nào cũng thênh thang, có điều càng dài lâu càng “mỏi gối”, thậm chí có khi “lật ngửa”.
(Theo Tuổi Trẻ)