Những hôm trời mưa rất lớn, quán vẫn dọn dưới một mái hiên. Người đàn bà bán phở tuổi gần sáu mươi, rất ít nói.
Một hôm, tôi thấy có người đàn bà đi chiếc xe tay ga tới mua phở đem về. Dáng vẻ bà ta rất vội vàng, khuôn mặt vừa phẫn nộ vừa đau đớn khó tả.
Người khách ngồi xuống, kể chuyện, như trút đi một gánh nặng quá sức: “Mỗi tuần con gái em lại đi khỏi nhà một hôm. Hỏi nó đi đâu, nó bảo đến thăm bạn, nhưng hỏi bạn ở đâu, địa chỉ, số điện thoại thế nào, nó không chịu nói. Em mới cho mấy đứa cháu đi rình”. Giọng bà nghẹn lại. Nước mắt chực trào ra.
Bà bán phở không nói gì, chỉ bảo: “Phở đem về ăn ngay kẻo nguội”. Người khách kể tiếp: “Hóa ra nó ra gần bến xe, đón khách làng chơi, kiếm tiền để đua đòi với chúng bạn. Chị bảo thế, em còn sống để làm gì”. Bà bán phở không nói gì, ngồi xuống, thối lại tiền thừa. Người khách tâm sự: “Em bắt nó về xích lại, không cho ra khỏi nhà, nhưng khi thả ra nó bỏ đi mất tích liền”. Nói xong, chị vội cầm lấy tô phở, lên xe, phóng vội trên đường.
“Trồng cây nào thì hái quả ấy, đời là vậy”. Người bán phở nói, giọng bà buồn buồn. “Cô ấy không chịu đi làm, chỉ quẩn quanh tìm đàn ông có tiền để cặp bồ. Con cô ấy hằng ngày nhìn thấy thế, nên bắt chước. Oan nghiệt lắm chú ạ”.
Tôi đã hình dung được cảnh cô gái xấu hổ thế nào khi bị bắt về nhà, có lẽ cô ấy sẽ bỏ nhà đi thật. Nó là tất cả niềm vui và hy vọng của người mẹ kia.
Tôi chợt hiểu vì sao người đàn bà bán phở này lại có thể ngồi lì suốt đêm mưa để nhặt nhạnh từng đồng bạc lẻ. “Trồng cây nào hái quả đó”. Người đàn bà này xem ra rất từng trải. Bà tin vào thuyết nhân quả. Bà nghĩ rằng những sự nhọc nhằn của mình tựa như những hạt mưa sẽ tưới tắm cho con cháu sau này. Niềm tin đó khiến bà có sức mạnh vượt qua những đêm dài dằng dặc với bao nhiêu cực khổ trong cái ngõ tối tăm này.
(Theo Người Lao Động)