H. trước đây là một du học sinh tại Czech. Sau khi tốt nghiệp, H. ở lại làm ăn, lấy vợ, sinh con, định cư luôn tại Praha. Khởi nghiệp kinh doanh từ những bịch hàng bán lẻ ở các chợ làng, sau có chút vốn, H. mua được quầy hàng tại chợ trung tâm thành phố.
Nay H. đã là ông chủ của hơn chục cửa hàng lớn nhỏ ở Praha và các thành phố lớn của CH Czech. H. không giấu tham vọng mở rộng thêm mạng lưới bán lẻ để tăng lợi nhuận.
Có học vấn, H. làm ăn lương thiện và giàu lên bằng chính sức lao động của mình. Hiện anh đang tạo công ăn việc làm cho hơn một trăm người. Thế nhưng, có một điều luôn làm anh ấm ức: “Mình không dám đến kiểm tra, đốc thúc nhân viên của mình trong giờ cửa hàng mở cửa. Lý do: khách hàng thấy mình đi vào, được nhân viên đồng loạt chào là họ biết cửa hàng do người Việt làm chủ và… bỏ ra hết”. Đấy là lý do mà H. cũng như nhiều người Việt khác phải thuê những người bản địa trực tiếp bán hàng cho mình.
Mặc cảm là người Việt, bị khinh rẻ, thậm chí bị tẩy chay, tâm trạng của H. cũng là tâm trạng chung của hàng chục nghìn người Việt ở đây. Không ít trong số họ bị dằn vặt, bức xúc, vì thường gặp sự phân biệt đối xử, những cái nhìn khinh bỉ, đôi khi cả những lời thóa mạ. Một số phải phớt lờ, chỉ chú tâm vào bán buôn tích cóp, có gì thì chắt lưỡi: “Ôi, mặc kệ, ai biết mình là ai!”.
Phải chăng chính những cái chắt lưỡi ấy mà một bộ phận người Việt ở các nước Đông Âu đã hủy hoại một cách vô ý thức danh dự của bản thân, cũng như dần đánh mất những cảm tình vốn có của người dân các nước này với dân tộc mình?
Những người Việt Nam đầu tiên sang các nước Đông Âu là những thành phần ưu tú, được cử đi học vào những năm 1960-1970. Thời đó, đang có chiến tranh, Việt Nam là một hình ảnh có sức thu hút đặc biệt đối với người châu Âu. Không hiếm trường hợp người dân bản địa không quen biết, đang hào hứng trong quán bia, đến ôm lấy vai chàng sinh viên Việt mà tung hô: “Việt Nam anh hùng! Tôi yêu Việt Nam!”.
Thập niên 1980, Việt Nam vẫn tiếp tục gửi sinh viên sang các nước Đông Âu du học. Cùng với sinh viên là những đợt lao động xuất khẩu đầu tiên. Từ đây, người bản địa bắt đầu có những cái nhìn khó chịu trước cảnh tượng từng đoàn dài người Việt xếp hàng rồng rắn trước các cửa hàng cửa hiệu bán xe đạp, máy khâu, vải bò, áo lông…
Họ xem đó không còn là sự bán mua thông thường, mà là vơ vét. Dường như, người Việt đã bắt đầu xâm thực đến những quyền lợi vật chất của họ, hàng hóa trở nên khan hiếm do người Việt “đánh hàng” về nước.
Cuối những năm 1980, đầu 1990, trong bước chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, cuộc sống của người dân bản địa lâm vào cảnh khó khăn, tiền ít, hàng hóa cực kỳ khan hiếm. Đây chính là cơ hội bứt phá của những người Việt vốn khôn ngoan, lanh lợi và chịu khó.
Người Việt bỏ công việc ở các nhà máy, công xưởng, nhanh chóng chiếm lĩnh các chợ bằng những chiếu hàng rẻ. Việc bán buôn “phất” khiến những làn sóng người Việt trong nước ùn ùn đổ sang.
Rồi hàng Việt Nam, Trung Quốc tràn ngập và rẻ đến bất ngờ. Nhưng hàng rẻ thường đi đôi với chất lượng kém. Trong giai đoạn khó khăn, người tiêu dùng phải chấp nhận điều đó. Thế nhưng, chính sự thiếu văn hóa trong kinh doanh của một bộ phận người Việt đã tạo nên những xung đột trong quan hệ giữa họ với người bản địa, trước là sự tức giận, sau là định kiến.
Ấn tượng về hàng Việt Nam rởm, người Việt Nam vì lợi nhuận mà bất chấp quyền lợi người tiêu dùng ngày một hằn sâu trong tâm lý của người dân bản địa, đến nỗi, khi chất lượng hàng hóa đã được nâng lên, văn hóa kinh doanh đã được cải thiện thì người Việt cũng không thể lấy lại được chữ tín.
Người Việt càng giàu lên thì thiện cảm của nhiều người dân bản địa với họ lại càng giảm, vì họ nghĩ người Việt làm giàu một cách không lương thiện. Hàng Việt Nam đã trở thành biểu tượng của loại hàng rẻ mạt, kém chất lượng, đến nỗi những đứa trẻ nghèo mới lớn cũng cảm thấy tự ti trước bạn bè khi gia đình mua cho chúng hàng Việt Nam.
Có lẽ, tâm lý lúc đầu của đa phần người Việt khi đi làm ăn ở nước ngoài là kiếm ít tiền “làm vốn lận lưng” rồi về. Nhưng một khi đồng tiền dù khó nhọc vẫn còn kiếm ra thì không dễ gì rứt bỏ để về quê hương. Mà chính tâm lý “tạm thời” đó đã tạo cho nhiều người Việt lối sống bất chấp, thiển cận, “ăn xổi ở thì”.
Cuộc sống của những người Việt bán buôn ở các nước Đông Âu hầu như chỉ quẩn quanh từ nhà ra chợ, gói gọn trong các khu thương mại của cộng đồng người Việt. Những người Việt sang sau không chịu học tiếng bản địa, thường chỉ biết đếm để tính tiền và dăm ba câu để giao tiếp bán buôn.
Môi trường ngôn ngữ mà họ tiếp xúc hàng ngày là nơi chợ búa. Nhiều người mở miệng là bắt đầu bằng một từ tục tĩu tiếng Tây (dù câu tiếp theo là tiếng Việt) mà không hiểu nghĩa thực của nó “nặng” đến độ nào. Họ cứ bô bô giữa nơi công cộng, làm cho người bản địa phải sửng sốt đến khó chịu và khinh bỉ.
Rồi những hành vi, những thói quen khó sửa (hay không có ý thức sửa) của người Việt trái ngược với chuẩn mực văn hóa châu Âu, cứ thế được phô bày.
Vì không biết tiếng, không hiểu văn hóa, văn minh của người bản địa mà nhiều người Việt không hội nhập được với xã hội họ đang sống. Họ co cụm trong cộng đồng người Việt, tất cả những việc liên quan đến các cơ quan công quyền đều phải thông qua dịch vụ của một số người biết tiếng trước kia là sinh viên hay nghiên cứu sinh, thậm chí họ phải thuê cả người đi họp phụ huynh cho con.
Người Việt ở các nước Đông Âu đang ngày một đông đúc thêm. Nhiều gia đình đã gom đủ cả ba thế hệ, có gia đình lên tới 80 người. “Đèn nhà ai nấy rạng”, người Việt nói chung đang theo đuổi những mưu cầu cá nhân chứ chưa biết gắn kết, chưa bảo ban được nhau.
Có lẽ chưa nhiều người hiểu được rằng, chừng nào một cá nhân chỉ chăm chăm vào quyền lợi của mình mà phớt lờ nghĩa vụ đối với xã hội thì đừng hy vọng có được thiện cảm và sự tiếp nhận của cộng đồng mình đang sống. Và cho dù mang quốc tịch sở tại thì tất cả những hành vi của họ đều được coi là của người Việt.
Đóng góp, tham gia xây dựng xã hội nơi mình đang sống đồng thời tạo tiếng thơm cho dân tộc Việt là việc nằm trong tầm tay, nhưng còn nằm ngoài tầm nhận thức của đa phần cộng đồng người Việt ở các nước Đông Âu.
Để khơi mở cho một tinh thần mới, hội nhập xã hội để được chấp nhận, được tôn trọng và phát triển, cũng như để quảng bá hình ảnh chân thực của Việt Nam ra thế giới, vai trò và trách nhiệm trước tiên thuộc về “những sứ giả chuyên nghiệp”, công dân gốc Việt tại các nước đó.
Một người Slovakia trong phái đoàn sang thăm chính thức Việt Nam tháng 10 năm ngoái đã thốt lên: “Tôi hết sức ngỡ ngàng khi thấy Việt Nam đẹp và phát triển thế này. Xin lỗi, cho đến trước khi đặt chân đến đây, trong đầu tôi là một phép tính: Việt Nam = xe đạp + hàng chợ rẻ tiền”. Nghe câu ấy, người Việt ở trong nước còn ngỡ ngàng hơn…
(Theo Doanh Nhân Sài Gòn)