![]() |
Người tiêu dùng giữa một “rừng” nước khoáng. |
Ở các nước tiên tiến, giá các loại nước tinh khiết nạp từ nguồn nước máy chỉ bằng 1/3 giá nước khoáng thiên nhiên (NKTN). Ở VN, tốc độ tăng trưởng của thị trường nước uống đóng chai (NUĐC) ước tính không dưới 25% mỗi năm. Do người tiêu dùng thiếu thông tin, các nhà sản xuất đang bán các loại NUĐC với giá bằng với NKTN trong khi chi phí sản xuất thấp hơn rất nhiều.
Trong gian phòng nhỏ của cô Đương, thợ làm tóc, ở quận 12 (TP HCM), bên cạnh các vật dụng là một bình nước tinh khiết 20 lít được đặt trên giá đỡ. Cô Đương nói đã đặt mua bình nước này 12.000 đồng tại một tiệm tạp hóa đầu hẻm, chủ tiệm "tiếp thị" thêm một giá đỡ 13.000 đồng, vị chi 25.000 đồng. "Tụi tui không phân biệt được nước khoáng hay nước tinh khiết. Cứ thấy nước đóng trong chai là uống!". Rất nhiều người tiêu dùng khác do thiếu thông tin như cô Đương cũng đang phải trả tiền cho các loại NUĐC với giá bán xấp xỉ với NKTN trong khi công dụng đối với sức khỏe của NUĐC chỉ là... giải khát.
Chỉ có 4/152 cơ sở sản xuất NUĐC được kiểm tra đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Theo kết quả kiểm tra 152 cơ sở sản xuất NUĐC quy mô nhỏ trên địa bàn TP HCM của Trung tâm Y tế dự phòng thành phố, chỉ có 4 cơ sở (2,5%) đảm bảo điều kiện vệ sinh. Trong số các cơ sở còn lại, 70% cơ sở rửa bình (loại bình tái sử dụng) bằng phương pháp thủ công không đảm bảo vệ sinh, 60% có quy trình sản xuất và thực hiện dán nhãn mác không đúng với công bố trước đó, 40% không khám sức khỏe cho công nhân - những người trực tiếp sản xuất...
Phần lớn các cơ sở tận dụng nơi ở làm nơi sản xuất, diện tích chật hẹp. Có nơi vô chai, đóng thùng cạnh nhà vệ sinh, không đảm bảo vệ sinh... Bác sĩ Nguyễn Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng, cho biết rất nhiều cơ sở sử dụng nguồn nước ngầm để sản xuất nước uống đóng chai nhưng chưa được sự cho phép của Sở Tài nguyên -Môi trường, chưa có các cơ quan chức năng đánh giá nguồn nước đó có đảm bảo hay không. Thậm chí có cơ sở lấy nguồn nước ngầm cạnh nghĩa trang, bãi rác.
Theo khảo sát của Thanh Niên, vào đầu tháng 10, trong khi giá NKTN của Công ty Vĩnh Hảo là 2.300 đồng/chai loại 500 ml, Thạch Bích: 2.300 đồng/chai, Lavie: 3.100 đồng/chai loại 500 ml... thì giá các loại NUĐC loại 500 ml bình quân từ 2.500 đồng đến 3.300 đồng. Giá các loại NUĐC có thương hiệu như Aquafina: 3.300 đồng/chai, Joy: 2.700 đồng/chai, Sapuwa: 2.800 đồng/chai, Dapha: 2.800 đồng/chai... Chỉ có Tribeco bán với giá 1.900 đồng/chai.
Riêng giá các loại NUĐC bình 20l - lĩnh vực mà các cơ sở nhỏ, sản xuất kiểu gia đình hầu như chiếm giữ thì vô cùng hỗn loạn: giá cao nhất là Evitan, Hello 12.000 đồng/bình; kế đến là Alive, Aquaguada 10.000 đồng/bình. Những loại giá rất rẻ gồm: I Love 7.500 đồng/bình, Lave 6.000 đồng/bình. Nhãn hiệu lạ hoắc là 079 có giá bán thấp hơn, chỉ 5.500 đồng/bình 20l. Giá tối thiểu các loại nước bình 20l của các công ty có thương hiệu cũng 24.000 đồng/bình, bằng giá với NKTN bình 20l của Vĩnh Hảo.
Ngành kinh doanh NUĐC đang đạt đến sự siêu lợi nhuận. Một chuyên gia trong lĩnh vực này tính toán: với các cơ sở sản xuất NUĐC nhỏ, trong khi giá bán loại nước chai 500 ml cũng tương đương với các loại NUĐC nói trên thì chi phí sản xuất chỉ ở mức: chai PET: 300 đồng, nắp chai: 70 đồng, nhãn: 80 đồng... nếu tính cả tiền nước, nhân công thì giá thành chỉ khoảng 600 đồng/chai. Theo thống kê chưa đầy đủ của ngành y tế TP HCM, thành phố hiện có 276 cơ sở NUĐC sản xuất với quy mô gia đình.
Để sản xuất NUĐC, nhà sản xuất phải có thiết bị công nghệ RO (màng lọc thẩm thấu ngược) để lọc các khoáng chất có hại ra khỏi phân tử nước. Hệ thống này trong nước không sản xuất được nên phải nhập về với giá rất cao (khoảng 1 tỷ đồng), vì vậy hầu hết các cơ sở nhỏ đều không có. Thay vào đó, họ lọc bằng than hay sỏi rồi đưa qua hệ thống máy UV (loại máy dùng tia cực tím tạo ozone khử trùng) rồi đóng chai đem bán. Còn nước? Đó chính là nước thủy cục hay nước giếng đóng.
Nếu những nhà sản xuất các loại NKTN phải tốn thêm chi phí cho việc thăm dò, phát hiện mỏ nước, xử lý nước, vận chuyển sản phẩm từ nguồn nước thiên nhiên đạt chuẩn đến các nơi thì các công ty sản xuất NUĐC hầu như có thể mở cơ sở ở mọi nơi và chỉ tốn chi phí cho các khâu tiếp thị, quảng cáo. Đặc biệt, hầu hết các công ty lớn đều hết sức o bế các đại lý với mức hoa hồng cực cao: từ 20-40% giá bán.
Việc định ra tỷ lệ hoa hồng này cho thấy lợi nhuận của các công ty kinh doanh NUĐC lớn như thế nào và tạo ra sự bất công trong phân phối sản phẩm so với các sản phẩm đồng dạng khác trên thị trường. Giảm giá bán NUĐC là đòi hỏi chính đáng của người tiêu dùng hiện nay, đòi hỏi này cũng là cơ sở để các loại NKTN giảm giá theo vì cắt giảm được những chi phí cạnh tranh không cần thiết.
Phân biệt nước khoáng thiên nhiên và nước uống đóng chai Nước khoáng (NKTN): Theo TCVN 6213: 2004, NKTN có thể phân biệt rõ với nước uống thông thường do đặc trưng có hàm lượng một số muối khoáng nhất định, các nguyên tố vi lượng hoặc các thành phần khác. NKTN đóng chai được lấy trực tiếp từ nguồn thiên nhiên hoặc giếng khoan từ các mạch nước khoáng ngầm được bảo vệ thích hợp để không bị ô nhiễm hoặc ảnh hưởng đến chất lượng của NKTN, được đóng chai gần nguồn với các hệ thống đường dẫn khép kín đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh nghiêm ngặt. Nghiêm cấm vận chuyển NKTN trong các vật chứa rời để đóng chai hoặc để tiến hành bất cứ một quá trình nào khác trước khi đóng chai. Trong quá trình tiêu thụ, NKTN đóng chai phải đảm bảo chất lượng, không gây rủi ro cho sức khỏe người tiêu dùng (không được có các vi sinh vật gây bệnh). Về bao bì đóng gói, TCVN về NKTN đóng chai cũng quy định: NKTN được đóng trong các chai, bình chuyên dùng cho thực phẩm, đảm bảo yêu cầu vệ sinh, không bị rò rỉ ở bất cứ tư thế nào, không làm thay đổi hoặc ảnh hưởng đến chất lượng của NKTN trong quá trình bảo quản và vận chuyển. Trên nhãn của sản phẩm phải được ghi rõ "Nước khoáng thiên nhiên" kết hợp với tên gọi thương mại hoặc địa danh của nguồn nước. Ngoài ra, tùy theo bản chất của từng loại nước khoáng mà ghi rõ NKTN có CO2 hay không. Trên nhãn sản phẩm phải được ghi rõ hàm lượng tổng chất rắn hòa tan và hàm lượng các thành phần đặc trưng của NKTN như: natri, canxi, kali, magiê, iôt, florua và HCO3. Khi sản phẩm chứa nhiều hơn 2,0 mg/l florua thì phải ghi trên nhãn là "Sản phẩm không thích hợp cho trẻ dưới 7 tuổi". Nước uống (NUĐC): Theo TCVN 6096: 2004, nước uống đóng chai có thể có chứa khoáng chất và CO2 tự nhiên hoặc bổ sung nhưng không phải là NKTN đóng chai và không được chứa đường, các chất tạo ngọt, các chất tạo hương hoặc bất kỳ loại thực phẩm nào khác. Tiêu chuẩn về đóng gói của nước uống đóng chai cũng được quy định giống như NKTN đóng chai, nhưng nhãn mác sản phẩm phải ghi rõ tên gọi là "Nước uống" kết hợp với tên gọi thương mại hoặc địa danh của nguồn nước. Về mặt cảm quan, khó có thể phân biệt được NKTN và nước uống bình thường, vì cả hai đều trong vắt như nhau. NKTN có hàm lượng khoáng cao thì còn có mùi, có vị, sủi tăm để phân biệt, nhưng với những loại NKTN có hàm lượng khoáng nhẹ - loại nước tốt nhất được các bác sĩ khuyên dùng cho giải khát bình thường, thì nó cũng chẳng khác gì loại nước tinh khiết. Chính vì vậy, trước khi mua, người tiêu dùng cần xem kỹ trên nhãn của sản phẩm có ghi dòng chữ "nước khoáng thiên nhiên" hay không. |