Người đàn ông ấy có dáng dong dỏng cao, mái tóc bạc trắng, làn da sậm màu đồng hun, đôi bàn tay to, chai dày, sần sùi. Ông là thượng tá Hồ Như Vọng, ở Gia Lâm, Hà Nội, người đã gần 40 năm gắn bó với trường bắn.
Thật ít người biết sau khi đã đền tội xong, phạm nhân được “chăm lo” ra sao. Người ta chỉ thở phào khi biết một tội ác đã khép lại qua dòng tin ngắn ngủi trên báo. Riêng với thượng tá Hồ Như Vọng, sự việc không đơn giản như vậy. “Tôi là người lo mua từ cây cọc tre dài cỡ 2,5m chôn xuống đất đến buộc khăn bịt mắt cho tử tội bớt hoảng hốt ở những phút cuối, rồi chỉ huy đội xạ thủ...”, ông Vọng kể.
![]() |
|
Trầm ngâm nơi trường bắn... |
Theo Tuổi Trẻ, ai từng chứng kiến một buổi thi hành án ở Hà Nội đều thấy thượng tá Vọng như hai con người khác nhau. Lúc chỉnh đốn đội thi hành án gồm năm chiến sĩ/một phạm nhân thì nghiêm khắc, dòng lệnh cuối cùng dõng dạc, dứt khoát để loạt súng vang lên... Nhưng sau đó, ông luôn là người nhanh nhất tiến đến cởi từng nút dây trói cho phạm nhân, nhẹ nhàng đỡ họ nằm xuống tấm ván quan tài. “Phải biết cởi dây nào trước để người vừa đền tội không bị đổ ập xuống”.
Cũng nhanh như cắt, ông chỉnh lại tư thế nằm “cho trông khỏi tang thương”, vạch ngực tử tội cho bác sĩ kết luận. Trước những dòng máu rỉ trên nền đất, không ít nhân viên pháp y run cầm cập nhưng ông Vọng vẫn cần mẫn tháo khăn bịt, vuốt mắt, chỉnh lại quần áo và đặt ngay ngắn kẻ từng phạm trọng tội vào cỗ áo quan. “Không vuốt nhanh khi cơ cứng rồi thì không thể vuốt cho họ nhắm mắt được”, ông Vọng bảo.
Sắp vào cỗ áo quan như đang lo chuyện tang cho gia đình, nhiều lần người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy thượng tá Hồ Như Vọng rút từ túi quần ra gói thuốc phạm nhân hút dở (trong tiêu chuẩn bữa ăn ân huệ cuối cùng mà ông cầm hộ từ lúc nào) nhẹ nhàng đặt vào bên trong quan tài nói lầm rầm như khấn: “Chú đem theo mà dùng”.
Không ít thợ đào huyệt sốt ruột khi ông Vọng tỉ mỉ gói cả đôi dép cho tử tội bèn phản ứng: “Gớm, bọn phạm chứ phải người nhà đâu mà bác cẩn trọng vậy”, ông chỉ nhẹ nhàng trả lời: “Họ hết tội rồi mà!”.
Trước đây, dù không có quy định công an thắp hương cho mộ tử tù nhưng khi mọi người đã ra về gần hết, ông Vọng vẫn kiếm đâu được bát cơm, quả trứng rồi lặng lẽ thắp bó nhang cho những người chỉ được coi là hết tội khi đã... về với đất. Ông bảo ông chỉ làm theo quan niệm của người Việt thôi. Đến nay, từ những hành động của ông Vọng, trong tiêu chuẩn của tử tù đã được bổ sung hai món hàng tâm linh trên.
Gan lì nhưng hoạt bát, một thời gian chàng lính mới 18 tuổi Hồ Như Vọng được điều vào canh gác Phủ Chủ tịch. Năm 1955, Vọng được cử đi học Trường Công an Trung ương. Qua vài công việc, đến năm 1969 thì ông được chuyển vào phụ trách phân đội 5 của trại tạm giam Hà Nội, khi đó còn gọi là trại Hỏa Lò.
Thời ấy, công việc của cán bộ trại giam bao gồm cả đi bắt, dẫn giải can phạm ra xét xử rồi giam giữ, thi hành luôn những bản án cao nhất. Trại Hỏa Lò phải lập một đội chuyên thi hành án tử hình, ông Vọng nằm trong số đó. “Là con người cả, có phải sắt thép gì đâu” nên ông Vọng cũng nhiều lần xin thuyên chuyển nhưng không được. Sau này, đội chuyên trách thi hành án tử hình được giải tán, thay bằng cách lấy luân phiên trong Trung đoàn cảnh sát cơ động thủ đô, thượng tá Hồ Như Vọng vẫn làm chỉ huy đội xạ thủ.
Trước đêm một bản án được thực thi, người ta vẫn thấy thượng tá Vọng tất bật chuẩn bị cọc tre, dây thừng, dải khăn đen. Để đảm bảo bí mật thời điểm tiến hành, cứ gần nửa đêm ông Vọng mới đánh xe lên phố Phùng Hưng, vào công ty mai táng hỏi “mượn” cỗ áo quan. Quen mặt mấy mươi năm, các bác bảo vệ lặng lẽ khuân lên cho ông, sau đó ông quay lại trả tiền.
Gần 40 năm gắn bó với trường bắn, ông nhớ rất nhiều những câu chuyện, hình ảnh cuối cùng của những người phải đền tội. “Cái đêm thi hành án đường dây mua bán ma túy do Vũ Xuân Trường cầm đầu một thời xôn xao cả nước ấy, trời lạnh, mưa giăng giăng nhưng ngột ngạt lắm. Duy chỉ có những kẻ chuẩn bị đền tội là còn… đùa”; “Hôm Khánh “Trắng” - tay anh chị nổi tiếng chợ Đồng Xuân - “trả nợ đời”, từng giết người từ từ nhưng ra pháp trường hắn run đến không thể tự bước. Có hai người đi cạnh dìu nhưng vừa nghe thấy tiếng súng lách cách, đũng quần hắn đã ướt đẫm...”.
Xử bọn ác ôn cho xã hội được nhờ và những linh hồn oan khuất đã ngã xuống vì tội ác được siêu thoát không có gì là xấu. Biết vậy nhưng người ta chỉ nhìn bề ngoài rồi trách, có mấy ai biết ông Vọng sau khi phát lệnh “bắn” là một con người mang đầy tình người...
Cũng chính thượng tá Vọng khi về hưu vẫn đeo đuổi xin đất, kinh phí để làm khu chôn cất tử tù. Ông nhất định đòi mua loại đất tốt, không được lẫn gạch ngói. “Chết là hết tội”, ông vẫn thường nói thế và ông luôn đối đãi họ với cái tâm của một con người lương thiện.
Suốt bao nhiêu năm làm công việc này, “tài sản” mà ông còn nhiều nhất là hàng trăm thẻ mộ ông làm cho phạm nhân. Trong những tấm “căn cước” cuối cùng này, nhiều phạm nhân không có ai nhận nên trong mục “thân nhân người chết” đều ghi: Hồ Như Vọng. Và những nấm mồ lạnh lẽo kia trở thành những nấm mồ của người thân của ông. Có lần, một người từ tận miền Nam ra Hà Nội tìm mộ cháu, gần chục năm nghĩa trang đã di dời nhưng ông vẫn giúp tìm ra được.
Có người tìm đến nhà khóc ròng cảm ơn khi biết ông đã lo chuyện hậu sự cho con mình tử tế. Một vị sư khi biết chuyện đã nói với ông rằng: “Nhiệm vụ vầy mà thí chủ vẫn làm được như rứa thật là tấm lòng bồ tát rồi đó!”.
