Ví dụ đơn giản về thặng dư vốn cổ phần là việc Sacombank phát hành 210.941.281 cổ phiếu với giá bằng 1,5 lần mệnh giá, tạo ra khoản thặng dư trên 1.000 tỷ đồng. Có thể nói vui là chẳng cần làm gì, đã lời hơn 1.000 tỷ đồng.
Nhưng cần nhìn nhận dưới góc độ khác, là khoản thặng dư vốn cổ phần này sẽ biến thành tài sản doanh nghiệp. Và nếu đầu tư kinh doanh không hiệu quả, hoặc khoản tiền bị chôn không hoạt động, tỷ suất lợi nhuận/vốn sẽ giảm (tức hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp giảm).
Thực tế này từng diễn ra, doanh nghiệp huy động vốn làm dự án đầu tư địa ốc, nhưng suốt năm, dự án không triển khai được, đã bị cổ đông phản ứng.
Có đơn vị chuyên cung cấp bê tông, bỏ vốn góp cổ phần vào doanh nghiệp làm cầu để giành quyền cung cấp bê tông. Kết cục, dự án cầu lỗ, doanh nghiệp lỗ theo. Nói thế để thấy, không thể cứ thấy cơ hội huy động vốn dễ dàng, là huy động, mà không tính toán kỹ hiệu quả của những dự án sẽ được dùng nguồn vốn huy động được, để đầu tư.
Việc cổ phiếu ngân hàng trở thành “cổ phiếu vua” đã tạo cơ hội cho các ngân hàng vào cuộc đua tăng vốn điều lệ lên 10.000 tỷ đồng. Đồng thời, số hồ sơ xin thành lập ngân hàng lên tới con số... hai chục. Và nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, sẽ dẫn đến tình trạng dội chợ cổ phiếu ngân hàng.
Việc thưởng, chia cổ tức bằng cổ phiếu thực chất cũng là việc phát hành cổ phiếu thêm để tăng vốn. Nhiều đơn vị hiệu quả hoạt động không cao, nhưng khuyến khích cổ đông bằng cách thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu. Cách làm này chỉ có tác dụng nhất thời, vì để thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu, doanh nghiệp phải phát hành thêm cổ phiếu, đồng nghĩa với việc tăng vốn. Và đồng vốn huy động thêm này nếu không được sử dụng hiệu quả, hoặc để thối đọng, giá trị doanh nghiệp sẽ giảm.
Nhìn lại thị trường thời gian gần đây, ở nhiều doanh nghiệp, trước đại hội cổ đông, giá cổ phiếu tăng. Ngay sau khi đại hội và có danh sách hưởng cổ tức (bằng cổ phiếu), quyền mua cổ phiếu phát hành thêm, là giá giảm. Có tình trạng đó, bởi các nhà đầu tư đều biết là, hiệu quả có thực của công ty là ở những dự án đã hoạt động và đem lại lợi nhuận. Còn với những cổ phiếu phát hành thêm, là của những dự án tương lai, có thể kỳ vọng, nhưng không biết sẽ thế nào.
Ông Phạm Văn Thiệt, Tổng giám đốc Eximbank nhận xét: “Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phần (vốn từ chứng khoán) thay vì trước đây dựa vào vốn ngân hàng, có lợi là không cần trả lãi. Nhưng nói gì thì nói, khi huy động thì phải kinh doanh hiệu quả. Việc nhắm vô thặng dư vốn cổ phần có 2 mặt. Thứ nhất là ai cũng phát hành thì người ta không đổ vốn vô nữa. Thứ hai, tỷ suất lợi nhuận trên vốn sẽ thấp đi. Bản chất là không tăng giá trị nếu không đầu tư công nghệ, nhân lực... hiệu quả”.
Tại các đại hội cổ đông, nhiều cổ đông lớn tiếng đề nghị công ty phải tính toán việc mở thêm lĩnh vực kinh doanh tài chính, vì thấy lĩnh vực này lời nhiều.
Theo ông Thiệt, kinh tế phát triển, đương nhiên dịch vụ tài chính ngân hàng phát triển. Việc đầu tư vào lĩnh vực tài chính ngân hàng là phù hợp vì lĩnh vực này tính minh bạch cao, do có kiểm toán khắt khe hơn so các ngành khác. Tuy nhiên, một số đơn vị đã có sản phẩm truyền thống, nhưng họ lại thích bỏ tiền vô chỗ sinh lợi nhanh là tài chính. Cứ lao vào bỏ rơi cái đang có, chạy theo tài chính một cách không chuyên là không nên. Cần có giám đốc tài chính để cân đối. Sản xuất kinh doanh mới là lâu dài, căn cơ. Còn đầu tư tài chính thì lúc lời lúc lỗ cần tính toán.
Ông Huy Nam, chuyên viên kinh tế và thị trường chứng khoán nói: “Những cơ hội ngắn hạn là luôn luôn có để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi thôi. Ai cũng làm, lúc nhiều lúc ít. Việc đầu tư tài chính là không sao cả nhưng phải coi chừng, tính toán tổ chức vì nhân lực quản trị lĩnh vực này đang thiếu và khó tìm. Huy động vốn mà không sử dụng hết là lúng túng. Không nên để thặng dư mà không có cách sử dụng”.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)