Bob Harris (Bill Murray) là một tài tử đang dần hết thời, sang Nhật tham gia một dự án quảng cáo rượu whisky. Charlotte (Scarlett Johansson) là cô gái trẻ theo chồng trong chuyến công tác đến Tokyo. Họ đều là những người mang trong mình nhiều cảm xúc xáo động và không còn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Ở cùng khách sạn, Bob và Charlotte vô tình va phải nhau. Những tâm tư của cả hai được dịp tuôn trào.

Bill Murray và Scarlett Johansson khắc họa hai cá thể lạc lõng nơi tha hương. Ảnh: Focus Features
Lost in Translation dành quãng thời gian đầu phim để đặc tả nỗi lòng của từng nhân vật, trước khi cho họ gặp nhau. Dưới ánh đèn màu của thủ đô nước Nhật, Bob tựa đầu vào ôtô trên chuyến xe từ sân bay đến khách sạn. Ánh sáng các biển hiệu dọc đường rọi vào ánh mắt, hiện rõ sự bơ vơ của Bob giữa cái tấp nập của thành thị, dù ông mới chỉ từ Mỹ sang.
Ở Bob, biên kịch – đạo diễn Sofia Coppola khắc họa nỗi lòng của những người đang trải qua khủng hoảng tuổi trung niên. Ở tuổi ngũ tuần, ông có sự nghiệp vững chắc và một gia đình hạnh phúc. Song, ông lại loay hoay khi không còn yêu thích công việc hiện tại, đồng thời phải chịu thêm gánh nặng của một người làm bố, làm chồng.
Vừa đến khách sạn, Bob miễn cưỡng đón nhận màn chào đón khuôn sáo của ban lãnh đạo và nhân viên. Sau đó, ông lập tức nhận được lá thư trách móc từ vợ vì cho rằng ông đã quên mất sinh nhật con trai. Hình ảnh Bob rệu rã đứng trong thang máy, nổi bật giữa những người Nhật Bản có phần nhỏ bé hơn cho thấy sự tách biệt của tâm hồn ông với thực tại.
Với Bob, Tokyo không đơn thuần là một nơi để công tác, mà còn là chốn để ông né tránh cuộc sống thường nhật tại quê nhà. Khi cuộc hôn nhân dài 25 năm dần mất đi sinh lực, ông rơi vào cảm giác chán chường khi luôn phải gồng mình đảm đương trách nhiệm với gia đình.
Suốt phim, Bob hầu như không bao giờ ngủ, như chính nhịp sống sôi động của Tokyo. Ông trằn trọc, nhìn chằm chằm lên trần nhà và suy tư những nỗi niềm riêng. Đôi lúc đang dần chìm vào giấc ngủ, ông lại bị đánh thức bởi tiếng máy fax chuyển tiếp tin nhắn từ vợ, về những công việc vặt vãnh của gia đình.

Người đàn ông da trắng nổi bật, khác lạ, lạc quẻ giữa biển người châu Á. Ảnh: Focus Features
Trong khi đó, Charlotte là cô sinh viên ngành Triết học vừa tốt nghiệp. Ở độ tuổi ngoài 20, cô sớm có một cuộc hôn nhân cùng người chồng nhiếp ảnh gia. Dù là vợ chồng son, cả hai không có nhiều sự giao tiếp khi người chồng liên tục bận rộn và để vợ ở lại khách sạn một mình. Charlotte cũng vì thế dần chìm sâu vào cuộc khủng hoảng hiện sinh.
Cô không biết mục đích tồn tại của bản thân là gì. Vừa ra trường, cô mất định hướng về tương lai và hoang mang về nghề nghiệp sẽ làm. Chôn vùi thanh xuân trong đời sống vợ chồng nhạt nhẽo, Charlotte thực hiện các hành động thương yêu với chồng như một thói quen và thiếu cảm xúc mặn nồng. Đến những việc nhỏ như chọn đồ ăn, thức uống, cô cũng không chắc điều mình thích là gì.
Ở Charlotte, người xem chứng kiến sự đơn độc của một người phụ nữ tuổi đôi mươi qua hàng loạt hình ảnh diễn ra suốt bộ phim. Cô cầm ô, hòa vào dòng người đông đúc, chậm rãi bước đi trên đường phố Tokyo. Khi đứng trước chùa chiền và lớp học cắm hoa truyền thống của Nhật Bản, cô chỉ nhận thấy sự trống rỗng.
Không giống Bob, Charlotte có nhiều thời gian ở Nhật Bản hơn. Do đó, cô cảm thấy quen thuộc với sự lạc lối của bản thân giữa phố thị sầm uất. Lost in Translation thường xuyên thể hiện hình ảnh Charlotte ôm gối, ngồi một mình bên ô cửa sổ của khách sạn xa hoa, nhìn xuống nhịp sống hối hả của Tokyo bằng ánh mắt vô hồn. Cô đã quen với trạng thái cô đơn giữa cuộc tình và đang bình thản chấp nhận nó.

Chồng chẳng mấy khi thấy mặt, Charlotte quen với việc một mình đứng bên ô cửa, ngắm nhìn dòng đời vội vã. Ảnh: Focus Features
Lost in Translation thể hiện nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của chính tiêu đề phim. Cả Bob và Charlotte đều là những người Mỹ, đến Nhật Bản với không một vốn liếng về từ ngữ địa phương. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp với dân bản địa.
Bob không hiểu những điều đạo diễn người Nhật muốn ông thực hiện, khiến ông trở nên ngớ ngẩn giữa đoàn phim với một người phiên dịch sơ sài. Charlotte không phân biệt được sự khác nhau giữa 6 loại thịt bò trong nhà hàng khi chú thích chỉ toàn Nhật ngữ. Khi cả hai vào bệnh viện, họ lại rơi vào trạng thái mơ hồ, bởi từ nhân viên, bệnh nhân đến bác sĩ đều chỉ diễn giải ý tứ bằng ngôn ngữ địa phương.
Điều đó lại càng tô đậm trạng thái lạc lõng của Bob và Charlotte giữa lòng nước Nhật, nhưng cũng là cái cớ để cả hai tìm thấy nhau. Họ đều là những thân phận xa xứ, bị cô lập khỏi xã hội bởi rào cản ngôn ngữ nên khi gặp mặt, cả hai vui mừng tìm được đồng hương, một người có thể hiểu được những điều họ bày tỏ.
Hơn thế, Bob và Charlotte còn hòa hợp với nhau ở tiếng lòng. Cả hai đều mang theo nỗi cô đơn đến cùng cực và tâm can trống rỗng. Gặp Charlotte lần đầu trong thang máy, Bob cảm nhận được sự kết nối vô hình với cô gái trẻ, không chỉ vì cô là người Mỹ hiếm hoi ông bắt gặp, mà nụ cười bất chợt của Charlotte khi nhìn Bob còn khiến ông cảm thấy được xoa dịu.
Ở cuộc trò chuyện đầu tiên tại quầy bar khách sạn, dù chỉ đề cập đến các mẩu chuyện nhỏ và vài thông tin xã giao, cả hai vẫn thiết lập được mối quan hệ do cảm nhận được sự đồng cảm. Với Bob, trước đó ông hoàn toàn lo sợ việc gặp mặt người khác. Song khi gặp Charlotte, ông phá bỏ vỏ bọc bản thân và chịu mở lòng với cô. Có lẽ do Charlotte tiếp cận Bob như một người bình thường trong xã hội, chứ không phải một ngôi sao điện ảnh như nhiều người khác.

Hai con người cùng nhau đơn độc. Ảnh: Focus Features
Lost in Translation tràn ngập khung hình khắc họa sự đơn côi của hai nhân vật, dù bối cảnh diễn ra trong không khí náo nhiệt của đất nước mặt trời mọc. Dưới nền nhạc xập xình và màu sắc lập lòe của đèn đường, hình ảnh Bob và Charlotte chạy dọc qua các khu phố thể hiện rõ sự tách biệt của hai tâm hồn lạc điệu với không gian xung quanh.
Suốt phim, mối quan hệ giữa Bob và Charlotte được xây dựng ý nhị và khó có thể gọi thành tên. Cả hai đều không tìm đến nhau để thỏa mãn dục vọng hay kể khổ về đời mình. Họ cùng những người bạn địa phương thâm nhập từng ngõ ngách của Nhật Bản, dùng văn hóa bản địa để khỏa lấp nỗi cô đơn của bản thân.
Bên cạnh nhau, Bob và Charlotte không san sẻ tâm tư bằng nhiều lời thoại. Dù vậy, người xem vẫn cảm nhận được liên kết giữa họ bằng những hành động kín kẽ như khi cô gái trẻ ngả đầu lên vai người đàn ông trung niên, tách rời khỏi thứ âm nhạc ồn ào từ căn phòng karaoke phát ra. Có lúc, nằm trên chiếc giường cùng Charlotte, Bob khẽ chạm bàn tay vào đầu ngón chân của cô nhưng cả hai vẫn không đi quá giới hạn.
Sau mỗi lần gặp mặt, Lost in Translation nhắc nhớ người xem về vấn đề hai nhân vật đang đối diện. Chồng Charlotte trở về sau nhiều ngày công tác rồi lại lên đường. Bob nhận được cuộc gọi của vợ và con trai tại quê nhà. Có khi, tác phẩm cho các nhân vật tự lục tìm và nhìn ngắm các bức ảnh gia đình như ngầm khẳng định sau tất cả, Bob và Charlotte vẫn chỉ đang chạy trốn khỏi hiện thực.
Cuốn phim không đặt hệ quy chiếu đạo đức vào mối quan hệ giữa hai người đã có gia đình mà để mỗi người xem tự tìm ra câu trả lời cho riêng mình. Dẫu là tình yêu, tri kỷ hay chỉ đơn thuần là mối quan hệ đồng hương, Bob và Charlotte vẫn kết nối cảm xúc hiệu quả với khán giả. Dù vai trò của vợ Bob liên tục được nhắc đến trong phim, khi Bob qua đêm cùng nữ ca sĩ quán bar, điều người xem lo lắng nhất lại là tâm trạng của Charlotte.

Tri âm chạm vào nhau giữa xứ sở xa lạ và vội vã. Ảnh: Focus Features
Vai diễn Bob mang lại cho Bill Murray đề cử Oscar đầu tiên sau hơn 30 năm hoạt động nghệ thuật. Ông khắc họa tinh tế sự cô độc của một tài tử hết thời qua ánh mắt mơ hồ và hành động vụng về.
Scarlett Johansson dẫn dắt người xem bước vào nỗi buồn man mác của Charlotte với lối diễn tĩnh cùng nét mặt bình thản. Vai diễn Charlotte đánh dấu bước tiến lớn trong sự nghiệp minh tinh tại Hollywood khi cô mới 19 tuổi, bên cạnh màn hóa thân trong tác phẩm Girl with a Pearl Earring ra mắt cùng năm.
Khi Lost in Translation chiếu năm 2003, cuộc hôn nhân của đạo diễn Sofia Coppola và nhà làm phim Spike Jonze cũng đi đến hồi kết. Bộ phim dường như nói lên nỗi lòng của Sofia vào giai đoạn đó. 10 năm sau, Spike Jonze ra mắt Her như một góc nhìn khác của Lost in Translation. Cả hai phim đều có sự tham gia của Scarlett Johansson.
Sofia cho biết cô tạo nên tác phẩm bằng chính những trải nghiệm đã có trong quãng thời gian sinh sống tại Nhật. Suốt phim, nhiều tình tiết được nữ đạo diễn gom nhặt từ các sự kiện trong cuộc sống. Đoạn quảng cáo rượu của Bob được Sofia lấy cảm hứng từ đoạn phim quảng cáo cha cô, đạo diễn Francis Ford Coppola, thực hiện cùng đạo diễn Nhật Bản bậc thầy Akira Kurosawa vào những năm 1970.
Ở mùa giải thưởng năm 2003–2004, Lost in Translation mang về nhiều thành tích lớn. Bộ phim nhận được bốn đề cử Oscar và giành được một tượng vàng cho "Kịch bản gốc xuất sắc". Sofia Coppola trở thành một trong số ít nữ đạo diễn nhận được đề cử "Đạo diễn xuất sắc" thời điểm đó.
Trailer phim 'Lost in Translation'
Mỗi tuần một phim hay' là chuyên mục chỉ có trên Ngôi Sao, cập nhật bài viết tại mục Phim lúc 0h thứ 6 hàng tuần. Mỗi bài viết giới thiệu một phim nổi tiếng của Việt Nam hoặc quốc tế với chủ đề đồng nhất trong tháng. Tháng 8, mời quý độc giả cùng sẻ chia 'Nỗi cô đơn nơi thành thị'.
Đỗ Hoàng