
- Đúng là về mặt nguyên tắc tín dụng ngân hàng là phải tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm. Nhưng với những yêu cầu có tính chất để đảm bảo an toàn hệ thống thì không phải là không có những ràng buộc hành chính nhất định trong hoạt động. Cho nên tùy tình thế kinh tế mà cơ quan quản lý có thể đưa ra hoặc là những biện pháp cảnh báo, hoặc những biện pháp kinh tế, kể cả những biện pháp hành chính để giữ cho hệ thống này ổn định. Về mặt nguyên tắc thì không ai nói rằng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc các cơ quan quản lý Nhà nước không áp dụng các biện pháp hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế.
- Cơ sở nào để Ngân hàng Nhà nước VN đưa ra tỷ lệ 3% và tại sao lại đưa ra vào thời điểm hiện nay?
- Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước VN đưa ra chủ trương ấy căn cứ vào những chỉ đạo lâu nay của Thủ tướng Chính phủ về việc phải kiểm soát rất chặt chẽ vốn tín dụng ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán (TTCK) để đảm bảo thị trường này phát triển bền vững. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước VN đã thi hành một loạt biện pháp, như cảnh báo về mặt rủi ro đối với việc cho vay chứng khoán, đưa mức dự phòng rủi ro đối với các khoản cho vay chứng khoán lên 150%, nghiêm cấm các tổ chức tín dụng cho vay chứng khoán thông qua công ty chứng khoán của ngân hàng mình. Theo thống kê của chúng tôi, so với đầu năm, tổng dư nợ cho vay chứng khoán để đầu tư chứng khoán chỉ giảm 0,1% (trước đó chiếm 2,6% tổng dư nợ). Như vậy, tác dụng của các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước VN là chưa đủ mạnh.
"Theo thông tin mà chúng tôi kiểm tra thì kể từ khi ra quyết định, chỉ có 12 ngân hàng cho vay cao hơn mức 3% ấy. Tính bình quân chung của các ngân hàng cổ phần là 7%, các ngân hàng quốc doanh thì rất nhỏ vì quy mô của họ lớn, các ngân hàng nước ngoài thì không dính dáng gì. Như vậy là 3% là tỷ lệ căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay có thể chấp nhận được để kiểm soát hoạt động cho vay này" - Thống đốc Lê Đức Thúy. |
Thứ hai, hầu hết các nước không cho vay cầm cố chứng khoán để đầu tư chứng khoán. Có chuyên gia nước ngoài nói rằng, Việt Nam gần như là nước duy nhất mà ngân hàng lại cho cầm cố chứng khoán để vay tiền đi đầu tư chứng khoán, các nước không bao giờ để cho ngân hàng dính vào việc cho vay chứng khoán trực tiếp vì điều đó rất rủi ro.
- Nhưng các ngân hàng cho rằng tỷ lệ cho vay cầm cố của họ rất thấp nên vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng?
- Về mặt hình thức, một số tổ chức tín dụng tưởng rằng không có vấn đề gì khi mà giá thị trường lên tới 10 lần mà chỉ cho vay có 5, người ta cũng tự ru ngủ mình điều đó. Nhưng đứng về mặt quản lý vĩ mô thì phải thấy điều gì xảy ra nếu cuối cùng cổ phiếu của người vay ấy không bán được. Chẳng hạn anh mua cổ phiếu OTC thì hàng trăm cổ phiếu đang bị đóng băng, muốn bán cũng không bán cho ai được. Lúc bấy giờ, rủi ro đủ để gây sụp đổ một ngân hàng nếu tỷ lệ cho vay quá nhiều. Từ sụp đổ một ngân hàng có thể gây ảnh hưởng đến toàn hệ thống và sụp đổ toàn bộ hệ thống. Là người chịu trách nhiệm quản lý trước Nhà nước về sự an toàn của hệ thống ngân hàng, chúng tôi phải thấy trước những rủi ro tiềm ẩn. Tôi không hy vọng và không mong muốn sẽ có điều đó xảy ra nên phải ngăn chặn để điều đó đừng xảy ra.
- Những ngân hàng đã cho vay vượt tỷ lệ cho phép thì sẽ xử lý ra sao?
- Chúng tôi đã chuẩn bị và đang hoàn chỉnh một quyết định hướng dẫn. Sẽ có một thời hạn để buộc các ngân hàng đã cho vay vượt quá tỷ lệ rút dần dư nợ đưa về tỷ lệ cho phép chứ không phải là áp dụng ngay (cắt xuống 3%). Các hợp đồng tín dụng với khách hàng thì phải đến đáo hạn mới được thu hồi, dự kiến đến cuối năm nay phải thu hồi hết.
- Ngân hàng Nhà nước VN có tính tới việc quyết định này sẽ gây áp lực đối với các khách hàng đi vay cầm cố chứng khoán và tạo ra sự khủng hoảng về giá cổ phiếu trên thị trường hay không?
- Khi khách hàng đã ký kết hợp đồng tín dụng với ngân hàng thì căn cứ vào hợp đồng tín dụng và thời hạn vay vốn ghi trên hợp đồng để trả nợ. Áp lực chỉ có đối với những người có ý đồ lâu dài dùng tiền vay ngân hàng để chơi chứng khoán.
- Với chỉ thị 03, nhiều ngân hàng cổ phần đã cho vay đầu tư chứng khoán vượt tỷ lệ cho phép và không thể tiếp tục cho vay. Điều này sẽ khiến nhiều người lao động muốn vay tiền mua cổ phiếu khi doanh nghiệp của mình cổ phần hóa rất ít cơ hội có thể mua được cổ phần vì không đủ tiền?
- Ở đây phải phân biệt 2 điều: Ngân hàng Nhà nước VN cấm việc cho vay vượt quá tỷ lệ cho phép bằng cầm cố cổ phiếu đầu tư kinh doanh chứng khoán, còn nếu anh mua chứng khoán nhưng đảm bảo bằng tài sản hoặc chữ tín thì chúng tôi không cấm. Cái đó tùy ngân hàng quyết định. Bên cạnh đó, ở khía cạnh khác, chủ trương là cho cán bộ công nhân viên mua cổ phần không đồng nghĩa với việc ngân hàng phải cho vay để mua cổ phần. Do ngân hàng tự chủ kinh doanh thì họ phải tính rủi ro, nếu họ thấy việc cho vay là an toàn và lành mạnh thì họ cứ cho vay căn cứ vào độ rủi ro của từng khoản vay.
(Theo Thanh Niên)