Câu I: Trình bày ngắn gọn những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 (2 điểm):
Xuân Diệu được xem là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. "Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ Mới" - Hoài Thanh. Hai tập thơ "Thơ thơ" (1938) và "Gửi hương cho gió" (1945) của ông mang rất nhiều tính cách tân táo bạo trong cả nội dung cảm hứng và nghệ thuật. Thơ Xuân Diệu thời kỳ này luôn bộc lộ hai tâm trạng trái ngược: yêu đời, tha thiết với cuộc sống nhưng cũng luôn hoài nghi, chán nản và cô đơn. Dù ở trạng thái cảm xúc nào, Xuân Diệu cũng thể hiện cái Tôi cá nhân của mình hết sức mãnh liệt.
a. Xuân Diệu rất yêu đời và thiết tha với cuộc sống:
- Khi Xuân Diệu mới xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng định "Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy"... Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết". Ngày nay, các nhà phê bình gọi Xuân Diệu là "nhà thơ của niền giao cảm hết mình giữa con người và con người" (Nguyễn Đăng Mạnh).
- Thơ Xuân Diệu luôn có những hình ảnh rất say đắm về thiên nhiên và đặc biệt là hình tượng mùa xuân - mùa xuân có khi được thể hiện ở tầng nghĩa đen như một bức tranh thiên nhiên, một "thiên đường trên mặt đất" đầy ắp màu sắc, mùi vị, âm thanh...; có khi là biểu tượng cho tuổi trẻ, cho tình yêu cuộc sống...
- Xuân Diệu đặc biệt thành công ở đề tài tình yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là một khu vườn đủ mọi hương sắc, là bản nhạc đủ mọi âm thanh: từ đằm thắm, dịu ngọt đến nồng nàn, đắm say...
- Cũng vì yêu đời, thiết tha với cuộc sống mà Xuân Diệu rất sợ sự trôi chảy của thời gian, và đó là nguyên nhân của triết lý sống "vội vàng" rất đặc trưng cho hồn thơ Xuân Diệu.
b. Thơ Xuân Diệu cũng nói lên tâm trạng chán nản, hoài nghi và cô đơn:
- Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn, luôn đòi hỏi sự hoàn mỹ, thường nuôi mình bằng những ảo tưởng, ảo vọng. Ông lại mang thân phận của người dân mất nước, sống trong hoàn cảnh mất tự do, trong điều kiện sống mòn mỏi, tù túng, vì thế nhà thơ sẽ cảm thấy bơ vơ, bất lực khi bước vào thực tế.
- Tâm trạng chán nản, hoài nghi và cô đơn phát triển trong thơ ông trở thành một nỗi ám ảnh.
- Thơ ông thấm thía một nỗi buồn chán nản của cái Tôi nhỏ bé trước không gian mênh mông và thời gian thăm thẳm; nỗi buồn của những tình yêu thất vọng, của bi kịch bị cuộc đời hờ hững, từ chối...
c. Nghệ thuật: đóng góp độc đáo và đặc sắc nhất của Xuân Diệu cho văn học chính là ở cảm hứng, thi tứ và bút pháp.
- Xuân Diệu đã tiếp thu cả tinh hoa của thơ ca Pháp hiện đại và thơ cổ điển phương Đông. Vì vậy, thơ ông có nhiều cách tân về thi pháp, hình ảnh, nhạc điệu và đặc biệt là mối tương giao giữa các giác quan.
- Hai nguồn văn hóa Đông - Tây truyền thống và hiện đại được kết tinh ở một tâm hồn nghệ sỹ lớn đã giúp Xuân Diệu khám phá được những biên thái tinh vi của tạo vật và lòng người và thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật mới mẻ, súc tích và gợi cảm.
Câu II: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn "Vi hành" của Nguyễn Ái Quốc (5 điểm)
1. Khái quát chung về tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Ái Quốc không chỉ là vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của cách mạng Việt Nam mà còn là một tác gia văn học lớn của văn học Việt Nam hiện đại.
- Truyện ngắn "Vi hành" được Người viết vào năm 1923, khi đang hoạt động cách mạng ở Pháp. Nhân chuyến đi của của vua Khải Định sang Pháp dự Đấu xảo thuộc địa ở Mác xây. Sự ngu dốt lố lăng của tên vua bù nhìn vô dụng, sự thâm độc, tàn bạo mất nhân quyền của thực dân Pháp, đó là những nội dung được tác giả khắc học sâu sắc trong tác phẩm văn học thông qua nghệ thuật trào phúng.
2. Nghệ thuật trào phúng trong văn học:
- Nghệ thuật trào phúng luôn hướng tới việc tạo ra tiếng cười châm biếm, đả kích với đối tượng trào phúng - đối tượng trào phúng thường là cái xấu, cái vô dụng, không có giá trị của con người hay văn học. Tiếng cười trào phúng vì thế luôn là vũ khí sắc bén để đấu tranh với kẻ thù.
- Trong truyện ngắn "Vi hành", đối tượng trào phúng chính là tên vua bù nhìn Khải Định ngu dốt, hèn nhát và lố lăng; là thực dân Pháp với chính sách khai thác thuộc địa tàn bạo, sự vi phạm nhân quyền đối với người Việt Nam yêu nước ngay trên đất Pháp. Tác giả Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng những bút pháp trào phúng độc đáo, linh hoạt và đa dạng từ cách nói ngược, những cách chơi chữ thâm thúy, những câu hỏi giả định chua chát... đến việc sử dụng những bút pháp hiện đại rất được người Pháp bấy giờ ưa chuộng như: viết thư, xây dựng tình huống... Có thể đề cập đến hai bình diện chính sau đây trong nghệ thuật trào phúng của "Vi hành".
2.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống:
- Tiếng cười trào phúng đã xuất hiện ngay trong tình huống nhầm lẫn vừa trớ trêu vừa độc đáo của "Vi hành" - đó là việc một đôi thanh niên người Pháp lầm tưởng Nguyễn Ái Quốc là vua Khải Định đi vi hành. Tình huống này đã đạt được những hiệu quả châm biếm sâu sắc:
+ Giữ được thái độ khách quan cho người kể chuyện khiến chân dung Khải Định hiện lên là do cách nhìn, cách đánh giá của người dân Pháp.
+ Tăng thêm tính châm biếm sâu sắc: dân Pháp là dân gần 200 năm không có vua nên một ông vua Phương Đông sẽ thành một thứ đồ cổ kỳ quái và lạc lõng, lại trong sự quan sát của những thanh niên Paris đang háo hức những trò giải trí mới lạ. Chính vì thế bộ dạng Khải Định càng trở nên hài hước, lố bịch hơn. Nhờ sự "nhầm lẫn" ấy mà tuy Khải Định không hề xuất hiện, chân dung hắn vẫn hiện ra chân thực, sống động từ trang phục, dáng điệu, ngoại hình, cho đến hành vi, hắn vẫn hiện nguyên hình là một tên vua bù nhìn ngu dốt, lố lăng, hèn đớn, là một thằng hề đến mua vui cho dân Pháp, là một con rối chính trị của thực dân Pháp.
- Cũng nhờ tình huống "nhầm lẫn" độc đáo, đối tượng trào phúng của "Vi hành" không chỉ dừng ở Khải Định. Tác giả đã nhân sự "nhầm lẫn" của đôi thanh niên mà liên tưởng tới cái gọi là "nhầm lẫn" của chính phủ Pháp, mật thám Pháp, tố cáo những hành vi vi phạm nhân quyền của Pháp với những người Việt Nam yêu nước ngay trên đất Pháp.
2. 2. Dùng hình thức viết thư
- Hình thức viết thư mang tính chất tự do phóng túng giúp tác giả có thể chuyển giọng, chuyển cảnh linh hoạt, có thể bộc lộ cảm xúc, có thể liên tưởng từ chuyện này sang chuyện khác, từ đối tượng này sang đối tượng khác. Sau mỗi lần liên tưởng, sự hèn đớn vô dụng và nhân cách đê tiện của Khải Định lại hiện rõ hơn.
- Hình thức viết thư được sử dụng sáng tạo giúp tác giả đả kích châm biếm cùng lúc nhiều đối tượng, ở nhiều phía bằng những giọng điệu, tạo tính hài hước đặc biệt hấp dẫn - đó là việc đặt những câu hỏi giả định, là cách nói ngược, là cách sử dụng một hệ thống ngôn ngữ sắc sảo, linh hoạt đầy biến hóa, đặc biệt giàu tính đả kích, giễu cợt.
Câu III: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài "Tống biệt hành" của Thâm Tâm:
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong
1. Khái quát về tác giả - tác phẩm:
- Thâm Tâm là một cây bút tài hoa trong phong trào Thơ Mới (1932-1945), ông viết không nhiều nhưng đã tạo cho mình một giọng điệu riêng, đặc sắc trong làng thơ Việt Nam.
- "Tống biệt hành" là một bài thơ nổi tiếng của Thâm Tâm sáng tác trước 1945. Viết về đề tài "tống biệt" thuộc thể "hành" - một thể thơ cổ khá tự do, phóng túng với sự kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình, Thâm Tâm đã đem đến cho bài thơ những giá trị biểu hiện và biểu cảm sâu sắc.
- Hai đoạn thơ mở đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của bài thơ, nỗi bâng khuâng của kẻ ở, người đi trong cuộc "tống biệt" với li khách - trang nam nhi nghĩa nặng, tình sâu, dứt bỏ tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.
2. Bình giảng đoạn thơ:
2.1. Bốn câu đầu: Nỗi lưu luyến, bâng khuâng của kẻ ở người đi:
- Hai câu đầu: nghiêng về thể hiện tình cảm của người đưa tiễn.
+ Ý nghĩa: vừa thân yêu, vừa trang trọng của hai đại từ nhân xưng "ta - người" đã gợi những nét cảm xúc đầu tiên về "li khách - người ra đi vì đại nghĩa".
+ Hai câu thơ là nghịch lý: "Không qua sông/Có tiếng sóng" - Những thăng bằng, ý nghĩa biểu cảm của cặp câu phủ định - nghi vấn, hình ảnh "sóng lòng"...Tất cả đã thể hiện tình cảm lưu luyến, nhớ thương của người ở lại với người ra đi.
+ Sự phủ định "một dòng sông" mặc nhiên làm xuất hiện một hình ảnh một dòng sông chia ly trong lịch sử với bóng dáng người tráng sĩ Kinh Kha, sự liên tưởng ấy đã cho phép người đọc nhận ra đây là một cuộc chia tay thiêng liêng, trang trọng với một người ra đi vì những sứ mệnh cao cả.
- Hai câu sau nghiêng về thể hiện tình cảm của người ra đi.
+ Cấu trúc phủ định tuyệt đối ở câu 3, sự tương phản giữa ý nghĩa của câu 3 và câu 4, những thăng bằng mênh mông u uẩn, những vần "ong" điệp lại xao xuyến, vấn vương, giăng mắc...hai câu thơ đã thể hiện những nỗi buồn nhớ miên man, sâu lắng trong lòng người ra đi.
+ 4 câu đầu miêu tả một cảnh ly biệt bình thường nhưng lại làm hiện ra tình ly biệt mênh mang - đó là sự lưu luyến cố kìm nén trong một giọng thơ gân guốc, rắn rỏi mà vẫn dâng đầy xao xuyến, dư ba...
- 6 câu sau:
+ Câu đầu "Đưa người ta chỉ đưa người ấy" là sự xác định rạch ròi, dứt khoát trong tình cảm của người ở lại - "người ấy" là một trang nam nhi tình sâu nghĩa nặng, khí phách lớn lao.
+ - 5 câu sau tiếp tục làm rõ hơn hình ảnh ly phách với cả ý chí, dáng vẻ và tâm trạng:
* Trước hết là ý chí quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn: Sự quyết tâm dứt bỏ tình riêng được miêu tả trong điệp từ "một" - từ cực tả sự lựa chọn duy nhất dứt khoát không thay đổi; kết hợp với những phó từ chỉ sự phủ định trong các cụm từ: "chưa về"... không bao giờ... đừng mong"... khiến giọng thơ thêm kiên quyết, rắn rỏi.
* Hình ảnh "con đường nhỏ" gợi liên tưởng đến một con đường gian khổ, chông gai, con đường còn vắng bóng người dấn bước, con đường đòi hỏi "trí lớn" để đương đầu với mọi hiểm nguy.
* Dáng vẻ ly khách hiện lên trong từ láy "dửng dưng", gợi liên tưởng bóng dáng Kinh Kha thời chiến quốc "ra đi không trở về", một hình ảnh đẹp lãng mạn trong trường liên tưởng suốt bài thơ.
* Nhưng cũng có thể thấy ngay trong những lời tuyên bố mạnh mẽ, trong vẻ ngoài cố tỏ ra "dửng dưng", ly khách vẫn không giấu nổi những nỗi niềm lưu luyến, trĩu nặng trong lòng. Đoạn thơ đầy ắp các từ ngữ gợi đến những điều mà người đi cố tránh: "Gia đình... về... trở lại... mẹ già...". Cách nói phũ phàng trong lời tuyên bố "Ba năm mẹ già cũng đừng mong" có lẽ chỉ để người đi củng cố thêm quyết tâm sắt đá của mình, nhưng cũng chính vì thế mà người đọc nhận ra phần thật yếu mềm trong trái tim ly khách - đó là hình bóng mẹ già và sự chờ đợi héo hắt vô vọng nơi quê nhà.
Kết luận: 10 câu thơ đã thể hiện tình cảm lưu luyến nhớ thương giữa người đi - kẻ ở và khắc họa đậm nét vẻ đẹp của hình tượng ly khách.
(Theo VnExpress)