1. Ung thư vú
Ung thư vú phổ biến thứ hai ở phụ nữ. Theo Abestos, mỗi năm ở Mỹ có khoảng 250.000 phụ nữ và 2.300 nam giới được chẩn đoán mắc bệnh này. Cảnh giác khi thăm khám tuyến vú có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Các xét nghiệm để sàng lọc ung thư vú bao gồm chụp X-quang tuyến vú (mammography), chụp cộng hưởng từ (MRI) và khám vú lâm sàng.
Khi bị ung thư vú, bạn có thể thấy xuất hiện các triệu chứng như có khối u mới ở vú hoặc nách, núm vú tiết dịch không phải sữa mẹ, có sự thay đổi về kích thước hoặc hình dạng của vú, đau vú, vú dày lên, sưng tấy hoặc kích ứng.
Việc tự đánh giá và khám vú lâm sàng nên bắt đầu ngay khi bạn đủ tuổi đến gặp bác sĩ phụ khoa. Khi phụ nữ khoảng 40 tuổi nên bắt đầu chụp quang tuyến vú. Các hướng dẫn sàng lọc ung thư vú theo độ tuổi bao gồm:
- 40-44 tuổi: Chụp quang tuyến vú hàng năm hoặc hai năm một lần.
- 45-54 tuổi: Chụp quang tuyến vú hàng năm.
- Từ 55 tuổi trở lên: Chụp quang tuyến vú hai năm một lần.
Nếu có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú, bạn nên bắt đầu chụp quang tuyến vú sớm hơn 10 năm so với khuyến nghị cho dân số nói chung, thường ở độ tuổi 30. Chụp X-quang tuyến vú thường không được khuyến nghị cho nam giới, mặc dù bác sĩ có thể đề nghị chụp quang tuyến vú để sàng lọc cho những nam giới có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao.
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển mô ung thư của một người và nghĩa là bạn cần chăm chỉ hơn trong việc sàng lọc, bao gồm:
- Tuổi tác: Lão hóa làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán ở những người trên 50 tuổi.
- Đột biến gen: Một số người thừa hưởng hoặc phát triển các gen đột biến khiến họ có nguy cơ mắc bệnh. Những điều này có thể được xác định thông qua xét nghiệm di truyền.
- Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú: Mặc dù ung thư vú không được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư cũng khiến cơ thể bạn có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
- Những người bắt đầu có kinh nguyệt trước 12 tuổi hoặc bắt đầu mãn kinh sau 55 tuổi có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.
2. Ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung từng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở phụ nữ Mỹ. Tuy nhiên, điều này không còn đúng do các xét nghiệm sàng lọc có thể xác định tiền ung thư cổ tử cung trước khi nó trở thành ung thư.
Giai đoạn đầu của ung thư cổ tử cung rất có thể sẽ không có triệu chứng. Tuy nhiên, các giai đoạn sau có thể gây chảy máu hoặc dịch tiết bất thường từ âm đạo. Bệnh có thể được phát hiện thông qua xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung và xét nghiệm HPV.
Tốt nhất bạn nên sàng lọc ung thư cổ tử cung ngay khi bắt đầu gặp bác sĩ phụ khoa. Các hướng dẫn chung về sàng lọc ung thư cổ tử cung theo độ tuổi bao gồm:
- 21-29 tuổi: Bắt đầu xét nghiệm phết tế bào Pap ba năm một lần.
- 30-64 tuổi: Bắt đầu xét nghiệm phết tế bào Pap ba năm một lần, xét nghiệm HPV cứ sau 5 năm hoặc kết hợp cả hai xét nghiệm cứ sau 5 năm.
- Trên 65 tuổi: Có thể được phép ngừng sàng lọc ung thư cổ tử cung nếu có kết quả bình thường trong vài năm hoặc đã trải qua phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ.
3. Ung thư đại trực tràng
Ung thư đại trực tràng - ung thư ruột kết và trực tràng - là loại ung thư phổ biến thứ ba được chẩn đoán ở Mỹ. Bệnh thường gặp ở nam nhiều hơn nữ.
Các xét nghiệm được sử dụng để sàng lọc ung thư đại trực tràng bao gồm kiểm tra trực quan thông qua nội soi và xét nghiệm phân để phát hiện máu hoặc ADN bất thường.
Ung thư đại trực tràng thường không có dấu hiệu. Tuy nhiên, nếu phát hiện các thay đổi như có máu trong phân, đau bụng dai dẳng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân, bạn cần nói chuyện với bác sĩ.
Đối với những người có nguy cơ mắc ung thư ruột kết trung bình, việc sàng lọc nên bắt đầu ở tuổi 45. Các hướng dẫn sàng lọc ung thư ruột kết như sau:
- Từ 45-75 tuổi: Bắt đầu sàng lọc ung thư ruột kết thông qua xét nghiệm phân hoặc xét nghiệm thị giác theo khuyến nghị của bác sĩ.
- Từ 76-85 tuổi: Hãy cùng bác sĩ xác định xem có nên tiếp tục sàng lọc hay không, dựa trên tuổi thọ và sức khỏe tổng thể.
-Từ 86 tuổi trở lên: Không cần sàng lọc ung thư đại trực tràng nữa.
Nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng theo tuổi tác. Hầu hết các trường hợp phát triển ở những người trên 50 tuổi, do đó nên bắt đầu sàng lọc ở tuổi 45. Ngoài ra, các bệnh viêm đường ruột như Crohn hoặc viêm loét đại tràng có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.
Nếu gia đình có tiền sử mắc ung thư đại trực tràng hoặc polyp đại trực tràng, bạn cũng dễ có nguy cơ phát triển ung thư.
4. Ung thư phổi
Mặc dù nguyên nhân phổ biến nhất gây ung thư phổi là hút thuốc lá, căn bệnh này cũng có thể được tìm thấy ở những người chưa bao giờ hút thuốc nhưng tiếp xúc với amiăng hoặc radon. Do ung thư trung biểu mô (Mesothelioma), xảy ra ở lớp màng phổi hoặc bụng, là một tiên lượng hiếm gặp nên không có xét nghiệm sàng lọc trực tiếp nào được khuyến nghị.
Các triệu chứng ung thư phổi bao gồm ho dai dẳng, đau ngực, khò khè, ho ra máu, mệt mỏi và giảm cân không rõ nguyên nhân.
Xét nghiệm ung thư phổi không phổ biến như sàng lọc các loại ung thư khác. Tuy nhiên, chụp cắt lớp vi tính liều thấp (LDCT) có thể giúp sàng lọc ung thư phổi, nhưng nó thường không được khuyến khích trừ khi bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ cao mắc bệnh, chẳng hạn hút thuốc lâu dài. Trong quá trình kiểm tra LDCT, tia X sẽ chụp ảnh chi tiết về phổi để bác sĩ có thể kiểm tra những bất thường.
Xét nghiệm LDCT chỉ được khuyến nghị cho những người từ 55 đến 80 tuổi có tiền sử hút thuốc lá nặng trong vòng 15 năm xét nghiệm. Người nghiện thuốc lá nặng là người có tiền sử hút trung bình một gói thuốc lá mỗi ngày.
Xét nghiệm LDCT không được khuyến khích cho những người không hút thuốc và do đó thường không được sử dụng để chẩn đoán ung thư trung biểu mô.
Hút thuốc nhiều là yếu tố nguy cơ ung thư phổi rõ ràng nhất. Các yếu tố rủi ro khác bao gồm phơi nhiễm radon (một loại khí xuất hiện tự nhiên có thể gây ung thư phổi ở những người tiếp xúc với nó), phơi nhiễm amiăng, có tiền sử gia đình mắc bệnh này.
Hướng Dương (Theo Asbestos)