Mới cách đây 30 năm, tại Mỹ các nhà cải cách giáo dục từng tập trung nỗ lực giải quyết cái gọi là tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục đại học, tức là trong thực tế, ở bậc học này, sinh viên nam đông hơn hẳn sinh viên nữ. Những môn đồ bình đẳng giáo dục đấu tranh mạnh mẽ để có những chương trình giáo dục thích hợp với giới tính và chính sách tuyển chọn công bằng vào các trường đại học.
Nỗ lực của họ đã gặt hái vụ mùa bội thu. Trong những năm 1970-2000, tại Mỹ, số học sinh gái vào các trường cao đẳng và đại học tăng 136%, số nữ sinh viên theo học tiếp hệ master tăng 168% và số nữ sinh các ngành đặc biệt như luật và y khoa (điểm đầu vào cao hơn, thời gian học lâu hơn), tăng tới 853%.
Sinh viên nữ xuất sắc hơn
Thế nhưng đồng thời cũng xuất hiện dạng bất công giới tính mới trên bậc đại học, lần này có lợi cho phái đẹp. Từ cuối thập kỷ 70, số nữ sinh theo học các trường cao đẳng và đại học đông hơn hẳn các bạn trai và từ thời gian đó, xu hường này ngày càng lớn mạnh. Ngày nay, phái đẹp chiếm khoảng 56% số sinh viên các trường đại học Mỹ (1,7 triệu nhiều hơn nam sinh viên). Ngoài ra, mỗi năm số nữ sinh theo học hệ bổ túc master đông hơn nam giới tới 300.000.
Sự gia tăng thường xuyên số lượng phái đẹp trong hệ thống đào tạo càng làm nổi bật tình hình bi đát của phái mày râu trong nhà trường. Trong vòng 10 năm qua, tại Mỹ, tỷ lệ học sinh nam tốt nghiệp phổ thông (khoảng 70 phần trăm) được nhận vào các trường đại học và cao đẳng (khoảng 40%) và tiếp tục bổ túc master (khoảng 8%), không hiếm thời kỳ không hề gia tăng.
Và tình trạng này tồn tại bất chấp thực tế: chưa bao giờ bằng cấp đại học đảm bảo thu nhập cao như hiện nay. Phái mày râu chìm ngỉm ở điểm chết. Nếu như các học sinh nam và học sinh gái có năng lực gần như tương tự, tại sao họ không đạt được kết quả ngang bằng?
Bắt đầu từ trường mẫu giáo, hệ thống giáo dục đã tạo cơ chế khen thưởng yếu tố làm chủ, sự ngoan ngoãn và tập trung tư tưởng; tất cả giáo viên đều thừa nhận rằng, những đặc điểm như vậy thường gặp ở con gái nhiều hơn là con trai, nhất là ở những năm đầu.
Học sinh con trai thường khó ngồi một chỗ, chúng ngỗ ngược và hay quậy phá. Thế hệ giáo viên 30 năm trước có thể xoay sở với tình trạng như thế, một phần thông qua việc dành nhiều thời gian hơn cho học sinh nam. Thế nhưng từ ngày người ta bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến học sinh nữ, từ ngày trường học Mỹ sử dụng phổ biến thuốc an thần cho học sinh hư và phạm vi trừng phạt học sinh bị giới hạn hơn, học sinh nam bắt đầu rơi vào địa ngục.
Họ chiếm tới 75% đối tượng bị xếp loại "có khó khăn trong học tập" và thường bị đẩy vào các trường "cá biệt" nhiều hơn học sinh gái.
Có thể vì thời gian nghỉ giữa giờ ngắn hơn, thời luợng bộ môn thể dục ít hơn và thời gian học thuộc lòng, thụ động dài hơn (để hoàn thành các bài tập trắc nghiệm) càng làm trầm trọng hơn những vấn đề của học sinh trai. Vậy nên không có gì lạ, khi học sinh nam không tha thiết mấy với bậc đại học.
Họ cũng mẫn cảm hơn với không ít yếu tố xã hội, lý do lôi kéo họ khỏi cuộc đua lên đại học và bỏ trường. Yếu tố đầu tiên là thị trường lao động. Đàn ông trẻ tuổi, có bằng đại học hay không, bao giờ cũng được hưởng thu nhập cáo hơn đồng nghiệp khác giới, vậy nên số đông giới trẻ con trai coi việc làm như sự lựa chọn thứ hai bên cạnh đại học.
Biên chế việc làm mang lại cho không ít chàng trai niềm hứng khởi tài chính tức thì cùng với cuộc trốn chạy khỏi những năm dài vất vả mài đũng quần trên giảng đường đại học.
Nỗi đau không của riêng nước Mỹ
Vấn đề học sinh trai không chỉ là nỗi đau duy nhất của nước Mỹ. Trên toàn thế giới, học sinh con trai ở tất cả các nước công nghiệp phát triển đều học kém hơn các bạn gái.
Tại vương quốc Anh và Australia người ta đang thử nghiệm chương trình đào tạo mới với khả năng tạo thuận lợi hơn cho học sinh nam. Người ta kiểm tra kết quả học tập của các trường và lớp toàn học sinh trai và toàn học sinh gái cùng với chương trình soạn riêng theo giới tính.
(Theo Tiền Phong)