Hiểu Mai
Chị tôi thuở 20 là một người con gái duyên sắc, còn bây giờ chị đã là bà mẹ hai con nhưng mình gầy sương mai, nước da dãi dầu, đôi mắt thâm nâu. Cuộc đời chị giống như cánh bèo chòng chành trên sông nước mênh mang, như cánh cò cần mẫn sớm hôm trên cánh đồng quê hiu hắt, như tảng băng trôi với ba phần nổi là những niềm hạnh phúc hiếm hoi, bảy phần chìm là những giọt nước mắt đã hóa thạch mấy mươi năm cuộc đời. Nhìn chị, tôi nghĩ tới ánh trăng mờ bởi áng mây qua. Lặng lẽ cam chịu. Lặng lẽ tỏa sáng.
Chị sinh ra vào những năm cả đất nước khó khăn, gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Tuổi thơ của chị cũng vì thế mà đầy nước mắt. Chị đã khóc biết bao lần trong bữa cơm toàn rau rừng, ngô độn, củ mài. Cái ăn cũng chỉ để cầm chừng, để duy trì sự sống. Chị cũng đã khóc rất nhiều lần vì ong đốt khi lên rừng hái măng. Chị khóc giữa đường đèo khi chẳng may đánh đổ xe ngô luộc đem ra thị xã bán, cái ngã tất yếu của một đứa trẻ đi xe đạp nam mà đôi chân với mãi mới thấy bàn đạp. Chị đã khóc bên suối khi cơn lũ ngăn "cái chữ" ở bên kia quả đồi. Sau lần ấy, chị cũng đành chia xa ngôi trường mái lá. Khi tôi ra đời, chị thêm gánh nặng lo cho hai em nhỏ. Cơn lũ đã qua nhưng chị chẳng bao giờ sang được bờ bên kia nữa.
Khi bước vào tuổi trưởng thành, chị tôi đẹp như bông hoa ban bung nở rực rỡ giữa rừng. Lũ con trai trong làng si mê chị tôi lắm! Chị cũng đã rung động nhưng lúc biết yêu cũng là lúc phải chia tay người yêu. Gia đình tôi chuyển về quê sống. Chị đành bỏ lại mối tình đầu của mình nơi bạt ngàn xanh thẳm. Trên chuyến đi ấy, suýt nữa chị đã nằm lại giữa đường vì một trận ốm. Qua cơn thập tử nhất sinh này cứ ngỡ cuộc đời của chị sẽ được tái sinh sang một trang đời khác, vậy mà...
Về quê được một thời gian, chị lên xe hoa. Hai tiếng "làm dâu" ngắn gọn là thế nhưng với chị lại có thể chắp nhặt thành cả một thiên tiểu thuyết đẫm lệ. Thức khuya dậy sớm, lao lực cả ngày, tinh thần bị đè nén. Hai năm ở nhà người bằng cả 10 năm. Những giọt nước mắt của chị có lẽ chỉ mình chị biết, chỉ mình vạt áo hay. Tôi không bao giờ quên cái lần chị đi đốt gạch không về được, nửa đêm tôi phải bế đứa cháu đói lả băng qua cánh đồng đến bú mẹ. Cháu tôi khóc, tôi khóc, chị tôi cũng khóc.
Khi lò gạch đốt xong, anh chị tôi có một căn nhà mới nhỏ thôi nhưng gần đường, tiện cho chị buôn bán thêm. Gánh hàng của chị là vài mớ rau muống, mấy con cá, vài cân hến... vậy mà người ta vẫn mua chịu, thành ra lãi chỉ đủ ăn hai bữa. Ở làng, người ta thuê gì chị cũng làm, từ vớt bèo, đội đá, đến phun thuốc sâu, cấy gặt... Tài sản lớn nhất trong nhà anh chị là tờ giấy chứng nhận hộ nghèo, mấy tờ giấy bảo hiểm nhưng chị chẳng bao giờ than thở.
Có lẽ đúng như chị nói: "Sống lâu trong cái khổ, cái khó cũng quen rồi". Anh rể đi làm cả năm mới về, tiền chẳng được bao nhiêu, chỉ toàn tai tiếng. Bố tôi đã nhiều lần khuyên chị bỏ chồng đi nhưng chị vẫn không thể. Chị vì con? Vì tình nghĩa? Vì còn thương anh hay đơn giản vì chị là người phụ nữ Việt Nam vốn nhiều duyên nợ với bao gánh nặng cuộc đời?
Tôi thương chị. Thương đến cháy lòng. Trong suốt bốn năm học đại học tôi luôn canh cánh âu lo về con đường hạnh phúc của chị và biết bao người phụ nữ quê tôi giống như chị. Bởi vậy, khi biết tin xã tôi mới mở một công ty may, tôi đã vỡ òa hạnh phúc. Tôi tin cuộc đời của chị sẽ thực sự sang một trang mới. Chị tôi đi làm. Chị sẽ tự tìm được cách giải phóng cho mình. Chị sẽ tự do.
Tôi trở về thăm nhà vào một ngày tháng tư. Tôi đứng rất lâu ở bên ngoài công ty. Bên trong, tiếng máy ồn ã đã không át được tiếng cười nói. Tôi nghe trong đó có tiếng cười của chị...
Vài nét về tác giả:
Bài đã đăng: Ngày mới; Chiến dịch trừng phạt kẻ tội đồ; Khoảnh khắc.