Đất Gò Mây sau quy hoạch, giá của khu vực này từ 5 đến 7 triệu đồng/m2 . |
Năm 1999, anh N., bạn đồng nghiệp của tôi ở miền Tây chuyển công tác lên Sài Gòn. Anh ra khu vực Gò Mây, xã Bình Hưng Hoà, mua 180m2 đất nông nghiệp giá 230.000 đồng/m2 để cất nhà, giấy tay, có hàng xóm làm chứng và chính quyền xã xác nhận.
Anh xây ngôi nhà kiên cố gần 100m2, cũng không phép tắc gì, chỉ đóng 300.000 đồng cho xã gọi là tiền phạt xây dựng trái phép. Vậy là an cư. Ngày tân gia, bạn bè tới chúc mừng, nhưng do nhà không có địa chỉ nên anh phải hẹn điểm đón tại cây xăng Vĩnh Lộc rồi dẫn bạn vào theo những con đường mòn len lỏi dưới những luỹ tre. Thời ấy có cụm từ chung cho dân nhập cư là: Nhà không số, đường không tên, điện tự kéo, nước tự bơm.
Thế rồi 5 năm sau, một buổi sáng năm 2004, anh nhăn nhó báo tin: Nhà bị giải toả vì nằm trong dự án khu đô thị mới Vĩnh Lộc. Bạn bè lo ngại cho anh, đất không có giấy chủ quyền, nhà xây trái phép, hộ khẩu không có, rất dễ bị trắng tay. Nhưng rồi mấy tháng sau gặp lại anh, anh cười khoe mọi chuyện đã được dàn xếp, đất được tái định cư 98%, nhà được bồi thường 95 triệu đồng, cao hơn giá gốc. Trong thời gian giải toả, chờ tái định cư, anh được tạm cấp một căn hộ chung cư.
Hơn một năm sau, chúng tôi vào thăm anh, mọi chuyện thay đổi đến không ngờ. Bạn bè nói vui rằng anh có số đỏ, mà thật ra trên đời này chưa thấy ai được may mắn như anh, từ chỗ mua đất chui, xây nhà chui giữa một vùng nông nghiệp hoang sơ giờ trở thành nhà mặt tiền trong khu đô thị mới, đường sá thênh thang, cơ sở hạ tầng cao cấp. Chẳng những không tốn thêm một xu nào mà hai lô đất của anh bây giờ trị giá gần cả tỷ đồng. Nhưng anh ngậm ngùi nói: “Thật ra mình chẳng phải may mắn gì. Việc quy hoạch đất đai hiện nay giống như một canh bạc. Ai biết thì thắng, ai thiếu hiểu biết thì thua, thậm chí thua thiệt cả một đời người”.
Để hiểu rõ hơn thế nào là chuyện ăn thua trong canh bạc quy hoạch này, tôi giả dạng một người đi mua đất để lân la trong các quán cà phê.
Cô Hai Một kể rằng, gia đình cô có hai mẹ con, một con dâu, hai đứa cháu nội, cả đời cô sống nghề ruộng rẫy, chẳng biết quy hoạch là gì. Năm 2000, có mấy ông cán bộ đến nhà cho biết, đất của cô nằm trong quy hoạch khu đô thị mới, đã được Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, quyền lợi của cô sẽ được bảo đảm tối đa, thậm chí cô có thể làm giàu. Sau khi tiến hành đo đạc, cán bộ báo cho cô biết, tổng diện tích đất của cô là 13.000m2, phần đất vườn được bồi hoàn 90.000 đồng một mét vuông, phần đất trồng lúa được bồi hoàn 50.000 đồng/m2, tính chung, kể cả tài sản trên đất, cô sẽ được bồi hoàn 900 triệu. Sau khi làm lộ xong, cô sẽ được cấp 196 m2 đất mặt tiền để tái định cư.
Cô nghĩ, 13 công đất ông bà để lại, từ đời cha cô cho đến đời cô, quần quật quanh năm cày sâu cuốc bẫm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chưa bao giờ cầm trên tay được một lượng vàng. Bây giờ, 900 triệu, bằng 200 lượng vàng, lại được cái nền nhà mặt tiền gần 200m2 giữa khu đô thị, có điện, có nước, chẳng thua dân chợ. Rõ ràng là một cuộc đổi đời. Cô ký biên bản thoả thuận bồi hoàn rồi lên Ban quản lý dự án nhận 900 triệu đem gửi ngân hàng, yên tâm chờ ngày nhận đất tái định cư.
Năm năm sau
Khu tái định cư, nhiều người đã bán “lúa non” với giá từ 300.000 đến 600.000đ/m2. |
Giá vàng từ 4-5 triệu đồng một lượng lên 10 triệu đồng một lượng, số tiền cô gửi ngân hàng bỗng dưng mất đi một nửa. Giá đất trong khu quy hoạch từ 3 triệu đến 7 triệu đồng/m2. Cô nghe những người biết chuyện nhẩm tính, giá thành của một mét vuông đất thổ cư trong khu quy hoạch dao động từ 600 nghìn đến 1 triệu đồng, bao gồm chi phí đền bù giải toả, san lắp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi.
Với 13.000m2 đất của cô, nếu trừ đi 50% diện tích đất công cộng, còn lại 6.500m2 đất nền nhân cho con số khiêm tốn là 3 triệu đồng trên mỗi mét vuông (tức là cái giá thấp nhất trong khu đô thị Vĩnh Lộc hiện nay mà Ban quản lý dự án đang mua lại của dân), trừ lại chi phí đầu tư thì ai sẽ thừa hưởng con số siêu lợi nhuận này?
Anh Trịnh Minh Thế, con trai của cô Hai Một đâm đơn khiếu nại đòi quyền thừa kế phần đất của mẹ để được tái định cư. Sau một cuộc giằng co, Ban quản lý dự án dàn xếp bằng cách trả lại cho cô Hai 1.500m2 để cô chia cho con, đồng thời cô phải thối lại cho Ban quản lý dự án 135 triệu, tính theo giá bồi hoàn đất vườn. Trên 1.500m2 ấy, anh Thế được tái định cư 12%, tức 180m2 mà không được nhận bồi hoàn. Thôi thì của đổ hốt lại, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Biên bản thoả thuận bồi hoàn mình đã ký, tiền bồi hoàn mình đã nhận, tất cả coi như ván đã đóng thuyền. Cô Hai Một buồn bã nói thế.
Người thứ hai thua đau đớn trong canh bạc này là ông Hai Tặc, một nông dân ba đời sống ở Gò Mây. Cũng như cô Hai Một, ông Hai Tặc có 7.500m2 đất trong quy hoạch, ông được bồi hoàn hơn 700 triệu và 196m2 đất tái định cư. Năm 2000, trước khi ký biên bản thoả thuận bồi hoàn, có một người quen làm luật sư khuyên ông không nên ký. Có hai lý do: thứ nhất, đây là dự án kinh doanh của một doanh nghiệp chứ không phải là công trình phúc lợi xã hội; thứ hai, đây là biên bản thoả thuận chứ không phải quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước. Vì vậy, cần cân nhắc kỹ để tiếp tục thoả thuận về quyền lợi của đôi bên. Có thể giữa chủ đất và chủ doanh nghiệp đi đến một thoả thuận hợp tác, chuyển đất thành vốn để cùng chủ đầu tư chia lợi nhuận.
Không thể hình dung nổi một canh bạc đầy phức tạp trong khi 700 triệu đồng trước mắt ông đang là phần thắng trong tay. Vốn là một nông dân hiền lành và tử tế, nghĩ 700 triệu đồng đây là công lao của mẹ cha để lại, ông Hai Tặc mang đi chia cho ba người em gái, hai đứa cháu con của người em đã chết, mỗi người được năm ba chục triệu đồng, còn lại là phần của sáu đứa con, trong đó, ông đầu tư cho đứa con trai lớn một chiếc xe khách để kinh doanh.
Chiêm nghiệm cuối đời của một “con bạc”
Bây giờ, sau sáu năm, ông đã nghiệm ra rằng không phải mình thua một canh bạc mà thua cả một cuộc đời. Đất tái định cư chưa có, cũng không biết nó nằm ở vị trí nào. Còn ngôi nhà ông đang ở thì coi như ông chỉ ở trọ trong nhà mình vì tiền bồi hoàn ông đã nhận của người ta, nó là của người ta, không biết người ta sẽ cho xe ủi đến lúc nào. Tiền đã hết, chiếc xe thì bữa có khách, bữa không, sáu đứa con đã lần lượt có vợ có chồng nhưng chẳng lẽ cứ tiếp tục ở trọ trong căn nhà ông đang ở trọ? Những câu hỏi cứ làm ông day dứt.
Sáng sáng, tôi thấy ông ra ngồi lặng lẽ trong quán cà phê ở đầu con đường mòn trước nhà, bên bụi tre gai, cái quán lá ấy cũng do ông cất trọ trên chính phần đất của mình. Ông cứ ngồi đó, chết lặng nghe mấy anh cò đất rao giá với khách mua. Ba triệu, bốn triệu, năm triệu, sáu triệu, bảy triệu đồng một mét vuông...
Con trai ông Hai Tặc, anh Liệt, nói với tôi mà như trách ông già: “Nhiều người đất ít hơn tôi mà bây giờ được năm bảy cái nền. Tại vì họ biết chuyện, lúc vận động họ cương, không chịu ký. Phải hồi đó ổng đừng ký thì bây giờ đâu đến nông nỗi này”.
Anh N. trầm ngâm nói: “Có những người sau khi nhận một cục tiền rồi không biết phải làm gì, cứ loay hoay ở trọ trên đất mình, ăn hết tiền rồi bán “lúa non” phần đất tái định cư cho cán bộ, nhân viên trong dự án với giá ba bốn trăm nghìn một mét vuông, dắt díu vợ con ra ngoại thành mua đất nông nghiệp ở tiếp... Than ôi! Biết đến thuở nào người nông dân mới tự quy hoạch được đời mình”.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)