Số là gia đình ông Nguyễn Văn Xuân kéo nhau về ở khu 61 Lạc Trung hiện nay từ những năm 1974, nhọc nhằn lao động, khai khẩn đất hoang. Năm 1987, ông mua thêm mảnh đất bên cạnh của người bạn chí cốt để xây thêm nhà cửa và chia cho con cái ở riêng. Cũng trong năm 1988, nhà máy dệt Minh Khai về cắm đất bên cạnh mảnh đất nhà ông theo quyết định của UBND thành phố lúc bấy giờ với tổng diện tích 8.000 m2. Rồi cho đến năm 2004, ông Xuân bỗng dưng ông bị khởi tố về tội vi phạm quy định về sử dụng đất, rồi bị toà kết án 8 tháng thù treo. Mặc cho đại diện phía bị lấn chiếm là Công ty dệt Minh Khai khẳng định ông Xuân không hề lấn chiếm một tấc đất nào.
Nhưng rồi toà vẫn chỉ căn cứ vào một quyết định cấp 237,5 mét đất làm đường của UBND thành phố Hà Nội cho công ty xây dựng nhà số 7 đã được "sửa" một cách khéo léo thành 2.375 mét. Thế là ông Xuân trở thành "thủ phạm" vụ lấn chiếm đất, mặc cho giấy tờ chứng nhận nguồn gốc đất nhà ông có từ năm 1956. Rồi không hiểu vì cớ do gì, một nơi ra quyết định, một nơi khác, sau hơn 15 năm mới đính chính lại là do sơ suất trong lúc đánh máy nên đã đánh nhầm dấu phẩy.
Tuy nhiên, dư âm sau phiên toà phúc thẩm lại chính là việc mua bán đất thiếu minh bạch giữa các cơ quan Nhà nước. Theo tinh thần quyết định của UBND TP Hà Nội ngày 27/10/1993 thì cho phép Công ty Dệt Minh Khai chuyển đổi mục đích sử dụng 5.000 m2 đất (trong tổng diện tích 8.000 m2 đất đã sử dụng) để xây nhà ở cho cán bộ công nhân viên, 3.000 m2 còn lại bị thu hồi để bàn giao cho UBND quận Hai Bà Trưng làm nhà ở di dân trên trục đường Trần Khát Chân. Quyết định ghi rõ phải thực hiện trong 6 tháng, nếu sau 12 tháng không thực hiện sẽ bị thu hồi". Không thực hiện theo đúng quyết định của UBND thành phố Hà Nội, nhưng để chiếm dụng mảnh đất, công ty dệt Minh Khai đã chuyển giao cho Công ty xây dựng số 7 tổng cộng 8.000 m2 đất lấy 3,2 tỷ đồng mà không hề thực hiện quy đình, thủ tục đấu giá như quy định của Nhà nước, trong khi đó, theo thời giá thực tế thì lẽ ra lô đất này trị giá khoảng 300 tỷ đồng. Việc thu số tiền kể trên được địa diện VKS giải thích là để giải phóng mặt bằng cho do các hộ dân đã lấn chiếm đất đai. Tuy nhiên, Ban giải phóng mặt bằng quận Hai Bà Trưng lại chỉ chi hết có 100 triệu đồng đền bù cho người dân, trong đó có đất của ông Xuân. Tuy nhiên những việc làm khất tất này không được HĐXX làm rõ.
Vẫn xoay quanh chuyện đất, ở quận Hai Bà Trưng còn có chuyện lạ đời hơn, xảy ra hàng chục năm, đã được các cơ quan thẩm quyền xác định là một số cán bộ làm sai, tự ý sửa quyết định và 3 gia đình bị thu hồi đất oan, nhưng đến nay vẫn chưa được hoàn trả. Đó là vụ việc của 3 gia đình ông Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Thắng ở tổ 17, phường Mai Động, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sự việc xảy ra từ những năm 1985, khi UBND thành phố cấp giấy phép giao cho UBND quận Hai Bà Trưng 2.250 m2 đất để xây dựng xí nghiệp chế biến than tổ ong, nhưng đến năm 1986, ông Nguyễn Trọng Thanh, là phó Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng lúc bấy giờ, sao giấy phép trên, ký tên đóng dấu sao y bản chính. Tuy nhiên cái quyết định "sao y bản chính" trên đến 4 năm sau mới được phát hiện là không hề giống với bản gốc của quyết định.
Những sai lệch nghiêm trọng của "bản sao" này chính là ở chỗ: Diện tích đất đích thực được giao là 2250 m2, nhưng bị biến đổi thành 3.500 m2; Tên đơn vị được giao đất là UBND quận hai Bà Trưng được sửa sang xí nghiệp chế biến than (nay là công ty xây dựng, phát triển nhà số 7). Địa điểm được giao là phường Mai Động lại được chuyển thành đất ven đường Lĩnh Nam, phường Mai Động...
Vậy là, chiểu theo bản quyết định "sao y" đó, UBND quận Hai Bà Trưng tiến hành giải phóng mặt bằng, lấy 4 thửa đất của 3 hộ là các ông Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Thắng và 128 m2 của HTX nông nghiệp, tổng cộng hơn 4.000 m2 đất. Cả 3 hộ không được đền bù đất chỉ được đền bù hoa màu, mặc cho cả 3 hộ trình được giấy tờ sở hữu hợp pháp.
Sau 4 năm, sự việc vỡ lở, các hộ đâm đơn khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất hợp pháp. Từ tháng 9/1991 đến 7/1997, thanh tra quận Hai Bà Trưng, Tổng cục địa chính, Văn Phòng quốc hội đều xem xét sự việc và đề nghị trả lại đất cho 3 hộ đã bị thu hồi kể trên, bên cạnh đó, ông Bí thư quận uỷ Hai Bà Trưng Ngô Văn Ngọc trình lên UBND thành phố 2 phương án: trả đất hoặc đền bù lại theo trượt giá hiện thời, trên tinh thần "sai thì sửa" trong vụ việc này.
Nhưng không hiểu vì lý do gì, cuối năm 1998, thanh tra thành phố Hà Nội có kết luận đi ngược lại những gì các cấp trước đó đã kết luận với phán quyết cả 3 hộ trên không chứng minh được nguồn gốc đất đó là của mình mặc cho ngay từ đầu, trong bản kết luận của thanh tra khẳng định được việc làm của ông Nguyễn Trọng Thanh là vi phạm pháp luật, cần xử lý nghiêm.
Vậy là sau rất nhiều năm giải quyết, cơ quan này "đá" cơ quan nọ, cuối cùng dù muốn hay không cũng đều có kết luận việc sửa quyết định của ông Nguyễn Trọng Thanh là việc sai trái, vi phạm pháp luật. Vậy nhưng đến nay, số phận đất ở của 3 hộ gia đình trên vẫn "treo" lơ lửng, chưa đến hồi kết, gây khiếu kiện.
Khánh Ngọc