Phan Hà Anh
(Thi viết 'Người phụ nữ tôi yêu')
Không vì lẽ gì mà một nhà học giả vĩ đại đã nói rằng phụ nữ sinh ra, nuôi lớn và dạy dỗ ta. Cho dù nghèo đói hay giàu sang, chúng ta vẫn được nuôi nấng và nâng niu từ những vòng tay đầy âu yếm ấy. Bà của tôi giờ đây đã trở thành "người thiên cổ" nhưng tôi sẽ không bao giờ quên những kỷ niệm về bà. Tôi sẽ mãi ghi nhớ để sau này kể lại cho con cháu nghe.
Bà nội tôi quê ở Bắc Ninh, thân hình nhỏ bé, gương mặt bà tròn, đặc trưng của các cô gái vùng quan họ. Tôi được thấm nhuần giọng hát của bà qua lời ru: "Con cò bay lả bay la, bay từ ruộng lúa, bay ra cánh đồng"... Ngày xưa, khi nghe bà hát, tôi đã rơm rớm nước mắt mà thương con cò, sao tội nó thế? Bây giờ tôi mới biết "con cò" trong lời hát ru ấy chính là bà nội.
Như bao cô gái thời xưa ấy, "lấy chồng từ thưở mười ba, đến năm mười tám, thiếp đã năm con". Ông bà nội có tổng thể bảy người con nên rất vất vả. Thời Pháp chiếm đóng, bà đi buôn thúng, bán mẹt, gặp nhiều chàng tỏ tình, trong đó có cả một người Pháp nhưng bà vẫn một lòng chung thuỷ với ông và đàn con. Hồi ở trường, đọc bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, tôi tưởng tượng ngày xưa bà cũng long đong, lận đận như thế. Thế rồi ông mất, để lại cho bà bảy đứa con, đứa bé nhất chưa đầy một tuổi.
Hồi bà nội còn sống, cả gia đình chen chúc trong một ngôi nhà lợp giấy dầu. Vào mùa hè, nhựa đường từ trên mái nhỏ xuống mâm, mùa đông thì chuột kêu chít chít trong khe tủ. Bà bán rau ở chợ, sáng sáng, bà gánh mấy mớ rau trên vai, đến trưa bà về. Dù bán đắt, ít hàng hay có hôm còn nguyên gánh rau nhưng bao giờ bà cũng có quà cho các cháu. Hôm thì bánh đa nướng, hôm thì bánh đậu xanh... Vì thế, đứa nào cũng thích đi chợ thăm bà nhưng thăm thì ít, vòi quà thì nhiều.
Bà nội thích ăn trầu, răng bà nhuộm đen, môi lúc nào cũng đỏ vì nước trầu, bà têm trầu cánh phượng rất đẹp. Trong bà, nét đặc trưng của con gái miền quan họ vẫn được lưu giữ. Bà nội còn có nhiều món ăn rất đặc biệt, những món ăn gắn liền với tên tuổi của bà. Đằng sau nhà tắm của cả gia đình có mọc một cây dâu tằm, bà hay hái lá dâu rồi nấu với muối trắng, thành món canh dâu tằm.
Sau này, cô tôi bán giải khát, bà hay nấu chè đỗ đen cho cô. Bà nấu chè vào mỗi buổi trưa. Giữa trưa quạnh vắng, nồi chè của bà toả mùi thơm ngào ngạt, mùi đỗ đen bùi bùi và mùi vani. Tôi không bao giờ quên được cái dáng còng còng của bà khi ngồi thái đường đen. Một buổi trưa, khi ngồi trong lớp học thêm, bỗng dưng thoảng qua mùi chè đỗ đen khiến tôi nhớ bà da diết. Cho đến bây giờ, mỗi khi nấu chè đỗ đen, kỷ niệm về bà lại tràn ngập trong ký ức.
Bà nội có nhiều món ăn ngon nhưng cũng có món khiến bọn trẻ con kinh hãi. Một trong những món đó là cháo đuôi. Bà hay mua xương đuôi về nấu cháo, mỗi lần đứa nào vớ phải cái khúc đuôi sẽ sợ mất mật, có đói đến chết cũng nhất định không dám ăn tiếp. Bà hay bảo "con nhà lính, tính nhà quan, đứa nào không ăn thì bà ăn hết". Bà sống rất tiết kiệm, những thứ không ăn hết, bà không bao giờ vứt đi, toàn cất thật kỹ cho đến khi nào chúng mốc meo lên, không ăn được nữa mới chịu đem bỏ. .
Ở Bắc Ninh, nhắc đến bà, ai cũng thương bà chịu khó, phải sống xa quê, cả đời long đong, lận đận như cánh cò trong đêm. Mọi người ở nhà hay bảo tôi giống bà cả về dáng người lẫn tính tình. Nhưng tôi không nghĩ thế, để làm được một người phụ nữ vĩ đại như bà, tôi còn phải học nhiều lắm!