Emily hào phóng, khỏe mạnh, sôi nổi, bà muốn có ông ngay từ lần gặp đầu tiên. Hồi mới giao du với Emily, Liggett sợ dáng vẻ và giọng nói của bà (ông không bao giờ khắc phục được giọng nói, chỉ quen dần với cung cách). Emily không xinh đẹp như nhiều cô gái khác nhưng ông không quen và không gần gũi người nào khác ngoài bà.
Họ gặp nhau trong bữa tiệc của cô tiểu thư giàu có bước vào giới thượng lưu, một trong những cuộc viếng thăm New York hiếm hoi của bà và là lần cuối trước khi ông bắt đầu đợt tập huấn. Ngày hôm sau, Liggett hẹn Emily đi uống trà rồi phải hủy và họ bắt đầu thư từ qua lại.
Liggett thường xuyên viết thư vì ông phải tiếp tục học, đồng thời tập huấn chèo thuyền; còn Emily theo một lịch trình chặt chẽ: mỗi tuần không bao giờ trả lời quá một bức thư, và hai ngày sau khi nhận được thư mới trả lời. Vì Emily, Liggett quyết học trường Kinh doanh Harvard. Việc này làm bố ông rất hài lòng. Bố đã thưởng cho ông một chiếc Ford bốn chỗ và bất cứ thứ gì ông đòi. Có một thứ ông không thể xin, đó là tấm thân trắng nõn nà của Emily. Một đêm đông ở Boston, Emily đã hiến thân cho ông không hề đòi hỏi. Sau khi chờ đợi ba tuần khốn khổ xem có xảy ra sự gì không, họ quyết định đính hôn.
Emily thà lấy Liggett còn hơn lấy một anh chàng Boston, vì Liggett chẳng bao giờ coi sự đam mê của bà là chuyện đương nhiên. Một người đàn ông Boston có thể nghĩ như thế, hoặc nhìn ngó quanh quất để tìm người hơn hoặc tương tự. Liggett không hề coi là chuyện dĩ nhiên. Có nhiều cách nói tế nhị về việc ngủ với nhau. Khi nói bằng sắc thái của đại lộ Commonwealth, không một người đàn ông nào sinh trưởng ở tả ngạn sông Connecticut có thể không chú ý. Khi một người đàn ông lắng nghe những lời ấy, khi anh ta truyền đạt cho người phụ nữ hoặc đề nghị cô ấy nói lên, anh ta không tiếp nhận tất cả ngay lập tức. Anh ta còn muốn nhiều hơn nữa.
Sự thể là như thế, và đó là điều bí mật. Những khoảnh khắc gần gũi của họ là của riêng họ, đến mức Liggett chưa một lần nói đến việc Emily mang thai đứa con đầu lòng với bất cứ ai, kể cả với em gái mình. Họ nhất trí đấy là chuyện vặt; đích thân Emily nói chuyện này với em gái Liggett. Nhưng đấy chỉ là một phần trong cách ông cảm nhận Emily. Trong suy nghĩ của Liggett, bất cứ việc gì liên quan đến cuộc sống tình dục của họ không phải chuyện đem ra bàn với người thứ ba.
Ở mức độ nào đó, mọi việc khác trong quan hệ của họ là vừa phải. Trong lúc bốc đồng, Liggett luôn muốn nói về Emily, nhưng ông đã đi một bước quan trọng vượt lên trên sự thô thiển: ông thầm nhận ra sự cám dỗ của mình là thông tục. Một tài sản có giá trị đến đâu cũng có thể có một hiệu quả xấu. Khi cần, một người đàn ông có thể nói về vợ mình với người thứ ba, hoặc nam hoặc nữ. Vì không thể bàn về Emily với một người đàn ông, ông bèn đến nơi có thể nói với một người phụ nữ. Phải nói với một người biết Emily, một người gần gũi với bà, ông nhìn quanh ngó quẩn và lần đầu tiên nhận ra rằng trong từng ấy năm sống ở New York - bảy năm, kể từ 1920 - Emily không có lấy một người bạn thân. Bạn thân nhất của bà là Martha Harvey, người Boston. Martha đã ly dị chồng. Bà lấy một triệu phú trẻ dốt nát, lúc nào cũng say khướt, thấp hơn bà gần chục centimét và chưa bao giờ nói nổi một từ bất lịch sự hoặc vô lễ với bất cứ ai trên đời. Martha lớn lên cùng Emily, họ gặp nhau thường xuyên, nhưng Liggett thấy không thể đến gặp bà để bàn luận về Emily. Martha cùng một giuộc với Emily mà thôi.
Song, thời điểm thật cấp bách. Tiền của gia đình Emily đổ phần lớn vào nhà máy sợi. Cha Emily, một bác sĩ, là người vui tính, không giàu óc tưởng tượng cho lắm. Ông học y vào cái thời các nhà phẫu thuật còn nói là "mủ đáng ca ngợi". (Ông chưa bao giờ hết ngạc nhiên khi biết rằng Walter Reed - nhà vật lý quân sự người Mỹ - đã đúng). Trên thực tế, sự hiện diện của ông trong ngành y được giải thích là do ông ham mổ cho mèo. Đây là hoạt động trí não duy nhất ông thích thú, vì thế cha mẹ hướng ông vào ngành y.
Một hướng đạo sinh được khen ngợi như cha của Emily sẽ có ích trong lúc cấp cứu, nhưng rất ít bạn bè đến với ông vì cảm lạnh hoặc đau họng để ông có dịp rèn luyện tay nghề. Nghề nghiệp chỉ là cái cớ để ông bỏ bê trách nhiệm tài chính, nhưng cứ một, hai năm ông lại nảy ra một ý tưởng, và lần này là bán tống bán tháo cổ phiếu nhà máy sợi rồi ném tiền mặt vào một chỗ nào đấy rất mơ hồ. Lần này chỗ mơ hồ ấy là đồng mác Đức. Ông chỉ biết chúng là thứ có giá trị, vì từ thời thanh niên ông đã đến Đức du lịch. Ông thấy ý tưởng ấy thật thú vị, và tài sản của ông sẽ sớm tăng lên gấp đôi. Ông sẽ có một lâu đài bên bờ sông Rhine, nơi hồi ấy người ta bảo có thể thuê nó với đầy đủ người giúp việc và mọi trang thiết bị với giá 100 đôla một tháng.
Liggett chẳng quan tâm đến việc ông già tiêu bao nhiêu tiền vào ý tưởng to lớn ấy, nhưng thấy ông dùng số tiền ấy rất dại dột. Làm bác sĩ chẳng kiếm đủ ăn, nhưng ông được thừa kế. Với Liggett, thừa kế là một loại lòng tin mà vị bác sĩ không có quyền vi phạm. Chí ít thì không có quyền lãng phí. Nếu vị bác sĩ hết năm này đến năm khác đừng ra vẻ có trách nhiệm thường xuyên trong việc tiền nong, thì ông lão cũng không liều lĩnh phung phí tất cả tiền của chỉ vì một linh cảm ngu xuẩn. Năm ấy bông được giá và trong lúc còn đang bàn thảo thì đau đớn thay, cổ phiếu trên thị trường sụt giảm, ít ra Liggett đã thấy có dịp cho thị trường mua cổ phiếu của vị bác sĩ mà không gặp phản ứng mạnh mẽ. Không, Liggett không thể chê bai nặng lời quyết định bán của ông già (thực ra, còn hơn là lúc giá chạm đáy mới bán). Nhưng đồng mác Đức, chao ôi!
Liggett những mong Emily có một người anh trai, hoặc một người em gái như nhiều người khác. Nhưng em gái của Emily là người hoàn toàn xa lạ, còn anh trai thì bà không có. Tiếp sau là một người bạn - Martha. Ông bỏ dự định nói với Martha khi tên bà ta gợi lên hình ảnh của bà. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Liggett thấy cần phải nói về tình trạng này với ai đó. Hè năm ấy, Emily và hai đứa con gái ở Hyannisport, còn Liggett không muốn nói với Emily là ông không thể làm được gì. Bà nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc và nói về người cha sẽ làm bà lo lắng.
Khi ông gọi điện, Martha sắp sửa đi ăn tối một mình; bà không ngạc nhiên hay tò mò khi ông gọi điện mời cơm. Bà đồng ý. Ông hỏi bà có thích uống rượu không, bà đáp là có, rất thích, và ông nói sẽ mang theo một chai gin. Ông tạt vào một cửa hàng trên đại lộ Lexington, mua chai gin sáu đôla, uống một cốc với ông chủ Matt, rồi lên taxi - một trong những loại Yellow nhỏ, thấp do Philadelphia sản xuất vào thời ấy, trông chẳng Mỹ tí nào.
Martha sống ở Murray Hill giữa Park và Madison, trong một căn hộ có thang máy. Họ uống cocktail hoa cam mà Liggett rất ưa. Martha hỏi thăm Emily một lần, chỉ một lần thôi. Bà nói:
- Emily sao rồi? Chị ấy đang ở Hyannisport phải không?
Ông nói Emily khỏe, và suýt tự trách mình đã nói thế, dù Martha biết hay không, thì Emily cũng không khỏe tí nào. Sau đó, khi thấy Martha không đả động gì đến Emily, ông nhận thấy mối nguy thực sự khi nói về Emily, người có tất cả những gì Martha có - sự tự tin, đĩnh đạc mà với nó Martha đã nhận lời ông mời ăn tối vì bà là chính bà, không chỉ đơn thuần là một người bạn đáng tin cậy của vợ ông. Nhưng đồng thời những điều ông muốn thổ lộ cứ tàn dần. Ông bắt đầu thấy vui vì được bầu bạn với Martha.
- Cô đói không? - ông hỏi.
- Không đói lắm. Chúng ta đợi thêm chút nữa. Khoảng chín giờ trời sẽ mát mẻ, nếu anh không có việc gì vội.
- Ồ không, tôi không vội gì đâu.
- Chúng ta uống cocktail nữa nhé? Anh biết không, tôi thích uống rượu. Kỳ thật, trước khi lấy Tommy tôi chưa bao giờ biết gì về chuyện rượu chè, còn anh ấy hay ép tôi uống kỳ say, nhưng thế là không tốt. Tôi không thích bị người khác chuốc say. Nếu muốn, tự tôi uống đến say. Tôi sẽ làm như thế.
Ông cầm cái bình pha rượu xuống bếp, làm mấy ly cocktail rất nặng, không chủ tâm hoàn toàn nhưng cũng không hoàn toàn ngẫu nhiên, vì điều bà vừa nói nhắc ông đến một thực tế về cơ thể và sinh học, dù-ông-muốn-gọi-nó-là-cái-quái-gì-đi-nữa, rằng: Martha từng có chồng, vì thế từng ngủ với một người đàn ông. Vào lúc này, điều đó không có nghĩa gì hơn với ông. Chỉ lạ là không hiểu vì sao ông không nghĩ bà như một phụ nữ có cuộc sống riêng tư. Hầu như ông luôn nghĩ Martha là người ông biết khá rõ, là một người bạn tốt, một người bạn không biết đến tình dục của Emily.
- Hôm nay ở Paris là Ngày Bastille (ngày Quốc khánh Pháp) - ông nói khi mang cocktail trở lại. (Đây cũng là ngày tuyên án Sacco và Vanzetti - hai công dân nhập cư Italy bị buộc tội giết người trong vụ cướp vũ trang ở Massachusetts thời điểm đó).
- Thế đấy. Tôi hy vọng sang năm sẽ có mặt ở đó trong Ngày Bastille.
- Thực thế ư?
- Tôi nghĩ thế. Hè này tôi không thể đến Cape được vì Tommy mà biết tôi ở đâu là réo điện thoại suốt ngày.
- Không có cách nào ngăn chuyện đó ư? - ông hỏi.
- À, tôi nghĩ là có. Con người hay nghĩ ra nhiều thứ giống y như cảnh sát vậy. Nhưng sao lại làm thế kia chứ? Hình như người ta không nhớ là tôi thích Tommy.
- Thế ư?
- Rất thích. Tôi không yêu anh ta, nhưng thích anh ta.
- Chà, tôi không biết thế đấy.
- Tất nhiên là anh không ngờ.
- Thật đấy mà. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên cô và tôi thực sự trò chuyện với nhau.
- Đúng thế.
Martha vắt một cánh tay lên lưng ghế sofa. Bà bỏ điếu thuốc xuống và dụi vào cái gạt tàn, rồi cầm ly cocktail lên. Bà tránh mắt ông khi nâng ly:
- Nói thực, tôi chưa bao giờ nghĩ cả hai chúng ta lại thích ngồi nói chuyện và uống cocktail với nhau như thế này.
- Vì sao?
- Anh có muốn biết sự thực không? - bà nói.
- Tất nhiên là có.
- Vậy thì được. Thực ra tôi chưa bao giờ ưa anh.
- Cô không ưa?
- Không - bà nói - Nhưng lúc này thì có.
Tại sao? Tại sao? Tại sao? Ông muốn hỏi: Tại sao? Tại sao lúc này em lại ưa tôi? Tôi thích em. Sao tôi thích em đến thế!
- Nhưng lúc này cô ưa tôi! - ông nhắc lại.
- Phải. Anh không muốn biết vì sao bây giờ tôi lại thích anh, sau một thời gian dài không ưa anh à?
- Lẽ tất nhiên là muốn chứ, nếu cô muốn nói và nếu không thấy tôi hỏi vô duyên.
- Lại đây - bà nói. Ông ngồi cạnh bà trên sofa và cầm lấy tay bà - Em thích mùi của anh.
- Vì thế mà bây giờ em thích tôi, còn trước kia thì không?
- Mặc xác cái trước kia! - bà đặt tay lên má ông - Đợi một chút - bà nói - Đừng đứng dậy. Để em làm cho - bà bước đến một trong hai cửa sổ lớn và kéo mành xuống. - Trên phố có người đấy.
Ông đã có bà, mặc nguyên quần áo. Từ lúc đó trở đi, ông không bao giờ yêu Emily được nữa.
- Anh muốn ở lại đây đêm nay không? - bà nói. - Nếu chúng ta ở với nhau suốt đêm mà em có thai cũng chẳng hại gì. Anh muốn ở lại không?
- Có, có chứ.
- Tuyệt. Em sẽ gọi cho người hầu, bảo cô ta sáng mai đừng đến sớm. Anh sẽ ra khỏi đây trước mười giờ, em định nói là sáng mai, được không?
Hè năm ấy, họ có một cuộc tình đắm say, dữ dội. Họ ăn tối tại các nhà hàng Pháp nho nhỏ, uống loại whisky dở tệ bằng tách cà phê nho nhỏ. Tháng Chín, Martha đi xa bằng thuyền buồm và đêm trước khi ra khơi, bà bảo ông:
- Bây giờ nếu chết em cũng chẳng cần, còn anh?
- Không. Với lại, anh muốn sống - ông đã tính toán suốt mùa hè trên giấy nháp, những thu xếp tài chính để ly dị Emily - Anh nhắc lại nhé, lấy anh đi.
- Không, anh yêu ạ. Chúng ta không phải một cặp hay ho gì đâu. Nhất là em. Nhưng em hiểu rằng trong phần đời còn lại của chúng ta, bất cứ khi nào gặp nhau, nếu em nhìn vào mắt anh và anh nhìn vào mắt em vẫn thấy thứ hiện giờ chúng ta nhìn thấy, vậy không gì có thể ngăn chúng ta được, phải không?
- Không. Không gì hết.
Hai năm sau, ông gặp lại bà ở Paris. Trong khoảng thời gian chờ đợi, ông đã gặp và ăn nằm với mươi người đàn bà khác, còn Martha hú hí với một tài xế taxi người Bạch Nga. Khi mắt họ gặp nhau, họ nhận ra một điều chắc chắn rằng họ chẳng nhớ nhung gì nhau, nói gì đến yêu đương.
Những lúc ông ở lại thành phố, nếu có người bạn tốt bụng nào nói với Emily, bà chẳng bao giờ tỏ ra có gì khác thường. Ông làm việc này khá kín đáo, tránh né những kẻ dòm ngó. Trong số những người đàn bà ông dan díu, có một phụ nữ Anh thuộc tầng lớp quý tộc phá sản đổ bệnh lậu cho ông, hoặc như người ta gọi tránh đi là loét dạ dày. Ông giãi bày với Emily là ngoài loét dạ dày, ông còn bị thoát vị ruột; bà chấp nhận tuy chẳng hiểu rõ thoát vị ruột là gì, nhưng biết không phải là đề tài nhắc đến trong câu chuyện bên bàn ăn. Bà thờ ơ đến mức ông có thể để những đồ dùng chữa bệnh ngay ở nhà.
Còn bác sĩ Winchester không mua đồng mác nữa. Một người môi giới chứng khoán thật thà đã can ngăn ông.
Còn tiếp...
(Trích Áo khoác lông chồn, tác giả John O'Hara, Nxb Văn Hoá Sài Gòn ấn hành)