Sáng 11/8, không ít học sinh bày tỏ ý kiến về bài văn duy nhất được điểm 10 của kỳ thi tuyển sinh vừa qua. Đó là tâm trạng khi phải ngồi trong lớp cắm cúi ghi đủ những lời thầy cô giảng, đi thi phải học thuộc những bài văn mẫu thì mới được điểm cao vì đúng như đáp án. HS không có quyền "bộc lộ" sự cảm thụ của cá nhân trong bài văn của mình vì sẽ lệch đáp án. Vì vậy, HS đành phải lựa chọn biện pháp an toàn nhất là học thuộc lòng.
Chị Minh Hà bộc bạch, con trai chị học lớp 3 đã kiên quyết không viết đúng bài văn mẫu của cô giáo nên đã bị điểm kém. Chị Hà nói: "Mỗi lần con tôi thi học kỳ, cứ phải học ra rả, thuộc từ dấu phảy đến dấu chấm, kể cả xuống hàng mà thấy thương các cháu". Có nghĩa là ngồi trên ghế nhà trường suốt 12 năm thì cả 12 năm đó, HS phải tuân thủ một phương pháp dạy học: "Thày đọc, trò chép".
Không chỉ riêng khối phổ thông, ngay cả khi bước chân vào giảng đường đại học thì sinh viên cũng vẫn phải rơi vào tình cảnh: "Thày đọc, trò chép". "Với phương pháp dạy và học kiểu này đã thui chột sự sáng tạo của HS. Ngay cả các môn tự nhiên như toán cũng phải tuân thủ các bước giải đã được thày cô "định sẵn", bạn Hoàng Đình Quang, cựu HS trường Việt Đức nói.
Học trò kêu phải cắm cúi chép bài thày giảng, thì chính thày cô giáo cũng đã rơi vào cảnh chép giáo án của những chuyên gia. Cô giáo Hoàng Thu Hà (Hà Nội) gửi đến bài viết dài 3 trang giấy, trình bày lý do vì sao các thày cô giáo cũng phải chép giáo án. Theo cô Hà thì các giáo viên tiểu học ở những trường bán trú thì không có khoảng thời gian trống để soạn giáo án. Tổng cộng để soạn một giáo án thì ít nhất giáo viên cũng cần đến 55 phút, đây là đối với một giáo viên có kinh nghiệm. Một ngày dạy hai buổi (trung bình 7 tiết thì ít nhất giáo viên phải cần đến khoảng hơn 6 tiếng đồng hồ để soạn giáo án). Chưa kể đến thời gian chấm bài, theo cô Hà, chỉ tính hai bộ môn thì giáo viên phải cần 2 giờ 40 phút. Như vậy, ngoài giờ lên lớp, theo tính toán của cô Hà thì giáo viên tiểu học cần phải làm việc thêm ít nhất khoảng 9 tiếng nữa.
Cô Hà có lời mời những nhà quản lý ngành giáo dục hãy về một trường tiểu học, thử soạn một bài và thử chấm bài của HS xem những con số trên có đúng hay không. Cô Hà đã đặt câu hỏi: "Sẽ có người hỏi, nếu đúng như tôi nêu thì từ trước đến nay, giáo viên tiểu học đã giải quyết vấn đề này ra sao? Câu trả lời là: "Trước hết, họ chỉ chép giáo án của những chuyên gia".
Có giáo viên thông minh và có lương tâm với học trò phải bỏ mấy triệu đồng để thuê người chép hoặc đánh máy cho mình một bộ giáo án. HS được hưởng lợi gì từ sự tự đầu tư này? Thời gian dùng để chép giáo án đó sẽ được họ dành để tham khảo, nghiên cứu, giáo án không còn nằm trên giấy nữa, vì vậy giờ dạy sẽ hay hơn, chất lượng hơn.
Qua cuộc trò chuyện với cả thày và trò, nhận thấy Bộ GDĐT lại tiếp tục đối mặt với vấn đề vốn đã gây nhức nhối. Một bài toán khó cho các nhà quản lý ngành giáo dục.
Từ bài văn được điểm 10, toàn xã hội mới có dịp nhìn lại một thực tế không ai muốn chấp nhận khi chương trình và SGK đã biến cả thày và trò thành "máy chép, máy ra đề thi và máy chấm". Dư luận cũng đã từng ngạc nhiên khi một HS đi thi học sinh giỏi văn không thể làm được bài vì không học đúng tủ bài văn mẫu.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Văn Đức, Trưởng khoa Văn, ĐH KHXHNV, ĐH Quốc gia HN Có thể thấy rằng đề thi văn năm nay đã đảm bảo cơ bản và chọn lọc, phân hoá khá rõ. Nhưng để có thể phát huy tối đa năng lực sáng tạo của TS, phải có cách ra đề khác hơn, hay hơn. Nếu so sánh thì thế hệ những năm 1970 có thể ra đề bình luận câu nói của Mark: "Hạnh phúc là đấu tranh", nhưng hiện nay mà ra đề như vậy là khó cho TS. Rất nên thay đổi cách ra đề, nhưng phải là sự thay đổi toàn diện cách dạy và học văn ở trường phổ thông. Phó Giáo sư, Tiến sĩ văn học Lê Quang Hưng, giảng viên ĐH Sư phạm Hà Nội Cách ra đề thi hiện nay thể hiện bộ muốn có biểu điểm tương đối khá. Do đó phải ra những cái cơ bản, không thể đòi hỏi sáng tạo, độc đáo được, nhất là với trình độ bây giờ của TS (chưa kể đến trình độ giảng dạy của giáo viên). Hiện tượng "văn mẫu" này cũng phản ánh tình trạng đọc-chép, liên quan đến cách học trong trường phổ thông. Cách ra đề thi khiến học sinh có thể "áp dụng" biện pháp đọc-chép và cũng phản ánh một điều tế nhị là cách làm sách của các NXB, các tác giả dựa vào giáo dục để kiếm ăn. Thày Nguyễn Hùng Vĩ, khoa Văn, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia HN Đề thi trong tương quan là yếu tố cơ hữu của giáo dục ảnh hưởng tới cách dạy, cách học. Lỗi không ở người thực thi, mà lỗi do bộ. Mục tiêu học để thi, đã có thi cử là có học. Việc hạn định một khung chương trình, chỉ gói gọn những gì về mặt kiến thức, bài giảng như thế nào học sinh trả bài như vậy. Lối học này ít nhất đã diễn ra từ năm 1985, và đến năm 1988 bộ đề thi đã xuất hiện. Khoảng vài năm trở lại đây, chủ trương chỉ ra đề thi trong chương trình đã nảy sinh một số vấn đề. Chủ trương học trong chương trình được ra đời như để đối phó với công luận, chứ không phải vì sự phát triển của nền giáo dục. Đề ra để hạn chế số điểm 0, điểm 1 cộng với bệnh thành tích. Đến người thực thi cũng hiểu trong chương trình một cách cực đoan. Sợ dư luận, bảo tồn vị trí của mình chứ không phải vì nền giáo dục. |
(Theo Lao Động)