![]() |
Thứ trưởng Lương Văn Tự. |
- Theo ông, khi trở thành thành viên WTO, ngành nào của Việt Nam sẽ được hưởng lợi ngay, còn ngành nào bị ảnh hưởng và phải đối mặt với cạnh tranh ở ngay trong nước?
- Ngành hưởng lợi trước tiên là dệt may vì được bỏ hạn ngạch, các doanh nghiệp sẽ xuất khẩu theo năng lực nếu có thị trường. Nếu chính sách của chúng ta minh bạch, dễ dự đoán và ổn định thì sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Lĩnh vực dịch vụ cũng sẽ được mở cửa, tính cạnh tranh sẽ cao cùng với chất lượng dịch vụ được cải thiện và giá cả thì giảm xuống. Một số ngành, như vận tải biển, sẽ có sự xuất hiện của nước ngoài. Chính phủ sẽ tiếp tục bỏ visa đối với công dân một số nước, hàng không cũng bị cạnh tranh bởi chính sách mở cửa bầu trời, việc đi lại sẽ thuận lợi với mức giá hợp lý, khách nước ngoài sẽ đến Việt Nam ngày một nhiều hơn.
Những ngành sản xuất mà năng lực cạnh tranh kém sẽ gặp khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi. Ngay những ngành dịch vụ mà năng lực cạnh tranh kém cũng khó khăn. Nhưng khi bị dồn đến chân tường, các doanh nghiệp sẽ biết cách vươn lên. Đánh giá cho hết tác động sau khi chúng ta gia nhập WTO lúc này là rất khó. Ngay như Trung Quốc, trước khi gia nhập WTO, có nhiều ý kiến cho rằng ngành ô tô sẽ gặp khó khăn, nhưng thực tế thì ngược lại.
- Là trưởng đoàn đàm phán, ông thấy điều gì là khó khăn nhất?
- Tôi xin chưa trả lời câu hỏi này cho đến khi đạt được mục đích. Nói chung, đàm phán có nhiều phức tạp, cả trong và ngoài nước, kể cả trong đối xử, ứng phó và thái độ của các nước.
- Ngoài đàm phán, chúng ta có vận động hành lang?
- Có chứ, các nước đều làm như thế, qua nhiều kênh khác nhau. Các đoàn Việt Nam đi công tác các nước thời gian qua cũng đã mang lại nhiều tác dụng tích cực.
- Đã 10 năm trôi qua kể từ khi chúng ta nộp đơn xin gia nhập WTO. Ông có cho rằng như vậy là quá dài với một nước có quy mô kinh tế còn khiêm tốn như nước ta?
- Đây quả là quãng đường dài nhưng không phải là dài nhất vì Trung Quốc đã mất tới 14 năm. Lúc đầu Trung Quốc cũng đi chậm, sau đó Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo quyết liệt, vì vào WTO muộn không có lợi. Với ta, giai đoạn đầu cũng tương tự vì tư tưởng bảo hộ còn phổ biến. Nhưng từ cuối năm 2002 đến nay, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt và tiến độ đã được đẩy nhanh hơn. Đến phiên đàm phán đa phương thứ 9 vào tháng 12 năm ngoái đã chuyển hẳn sang giai đoạn mới, lần đầu tiên dự thảo báo cáo gia nhập WTO của Việt Nam đã được Ban Công tác đưa ra thảo luận và sẽ bàn tiếp ở các phiên sau.
- Những nước mới gia nhập WTO như Nepal, Campuchia chỉ phải đàm phán với 4-6 đối tác, vì sao Việt Nam lại phải đàm phán với 28 đối tác?
- Việc có nhiều nước thành viên yêu cầu đàm phán mở cửa thị trường với một nước đang đàm phán thể hiện sự quan tâm của họ đối với nước mới gia nhập. Thu nhập đầu người của Việt Nam còn thấp, nhưng chúng ta có thị trường 82 triệu dân và tốc độ tăng GDP luôn trên 7% trong những năm gần đây, họ thấy cơ hội làm ăn với Việt Nam rất lớn nên mới đưa ra yêu cầu đàm phán.
- Luật chơi của WTO đã có sẵn, chỉ cần cam kết có tuân thủ những luật chơi đó hay không, đâu cần phải qua nhiều vòng đàm phán như vậy?
- Cái đó không đúng. Việc đàm phán vào WTO phải dựa vào những hiệp định của WTO, nhưng nhiều hiệp định của WTO rất chung chung, theo hướng mở chứ không cụ thể. Trước đây, chúng ta đã từng đề nghị WTO căn cứ vào những quy định có sẵn để cho Việt Nam gia nhập, nhưng họ không nghe. Với 16 hiệp định chính và những văn bản pháp luật khác gói gọn trong khoảng ba vạn trang sách, việc đưa ra cam kết chung chung là tuân thủ sẽ rất khó. Mặt khác, đang có xu hướng các nước mới gia nhập phải có những cam kết mới cao hơn các nước đã gia nhập, với mức thuế trung bình thấp hơn và độ mở của thị trường dịch vụ rộng hơn. Ngoài ra, hiện nay đang trong vòng đàm phán Doha, các thành viên cũng tranh thủ vòng đàm phán này để ép thêm 25 nước đang đàm phán gia nhập.
- Là trưởng đoàn đàm phán, trước các đối tác, ông luôn bị coi là muốn duy trì bảo hộ lâu hơn, nhưng với các cơ quan và doanh nghiệp trong nước, ông lại bị cho là chấp nhận mở cửa quá nhanh. Ông xử lý mâu thuẫn này thế nào?
- Khi đàm phán, các nước có thế mạnh về cái gì thì họ đều muốn chúng ta phải mở cửa ngành hàng, dịch vụ mà họ có thế mạnh đó. Điều này cũng dễ hiểu vì khi đã ngồi vào bàn đàm phán, tất cả các đối tác đều đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Còn có đạt được kết quả hay không, lại phụ thuộc vào cả quan hệ chính trị giữa các nước nữa. Thêm vào đó, như tôi đã nói ở trên, vì gia nhập sau, chúng ta bị ép thêm do các nước muốn cam kết cao, làm tiền đề cho tự do hóa thương mại. Phải cân nhắc những ngành nào cần bảo hộ, bảo hộ đến đâu để có đủ thời gian chuẩn bị trước khi mở của hoàn toàn, đảm bảo nền kinh tế không bị sốc. Trong quá trình này, chúng ta có một chút "thiệt thòi". Xét theo thu nhập đầu người, Việt Nam thuộc những nước kém phát triển nhất, nhưng Liên hiệp quốc lại xếp chúng ta vào nước đang phát triển dựa trên những chỉ số về y tế, giáo dục và vì vậy, trên bàn đàm phán WTO, chúng ta không có được những "ưu đãi" dành cho các nước có thu nhập hằng năm dưới 1.000 đô-la Mỹ/người. Vì vậy cũng dễ hiểu, hầu như các đối tác đều chấp nhận nguyên tắc chúng ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp cần có thời gian chuyển đổi.
Nhân đây, tôi cũng muốn nói rằng, về mặt ngoại giao, không nước nào từ chối việc chúng ta gia nhập WTO, nhưng phải trên bàn đàm phán mới thấy các nước có thực sự ủng hộ không.
- Đến nay, thời điểm gia nhập WTO của Việt Nam chắc không còn xa nữa. Vậy theo ông, sự chuẩn bị tốt nhất của các doanh nghiệp trong nước là gì?
- Đoàn đàm phán có các thành viên ở tất cả các bộ, ngành. Bộ, ngành nào phụ trách lĩnh vực gì phải có trách nhiệm thông báo và cùng chuẩn bị cho việc gia nhập với các doanh nghiệp của ngành đó. Trước đây vài năm, Chính phủ đã có Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó yêu cầu rất cụ thể từng cơ quan nhà nước, từng doanh nghiệp phải làm gì.
Tuy nhiên, còn ít doanh nghiệp chủ động nghe ngóng thông tin để điều chỉnh, điều này rất khác với các doanh nghiệp nước ngoài.
Để cạnh tranh được, các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng của mình, cả trước mắt và lâu dài, những doanh nghiệp sản xuất phải đầu tư cho công nghệ thiết bị, đào tạo cán bộ, xác định chiến lược phát triển thị trường trong và ngoài nước. Nói thì đơn giản như thế, nhưng khi vào việc sẽ rất phức tạp. Điều quan trọng nhất là phải thấy được sự hối thúc của quá trình hội nhập. Thời kỳ ỷ lại vào bảo hộ, hỗ trợ của Chính phủ sắp qua vì Chính phủ cũng phải tuân theo những luật chơi mới.