Nhân Ý
Tôi đến ngồi vạ ở quán cà phê cóc xế cửa nhà nó, quyết gặp nó ít ra là lần cuối để nói hết mọi chuyện cho ra lẽ. Hoặc biết đâu có thể vớt vát, vẫn vấn vương đâu đó trong nó một chút tình...? Mà chắc người nhà báo tin hay sao, nó bỏ đi biệt dạng không về nhà trong suốt ba ngày tôi ngồi vạ ở đấy, từ sáng sớm cho đến gần nửa đêm quán cóc dẹp ghế.
Mấy thằng nhóc em tôi vâng lời mẹ cứ ra gọi tôi mãi, nhưng tôi nhất quyết không về. Mẹ làm sao hiểu được tôi, làm sao hiểu được đời, càng làm sao hiểu được nỗi đau tình ái! Sang ngày thứ ba thì chú tôi đến, ngồi với tôi một lúc rồi rủ tôi đi uống cà phê máy lạnh.
Tôi rất nể trọng chú, sẩy cha còn chú mà, thì đi. Ngồi cả buổi dưới cái máy lạnh phun hơi ngùn ngụt mà chán phèo, nghe chỉ mỗi câu chuyện là chú đã phải chiến đấu thế nào với gia đình thím để cưới được thím. Tôi ngồi ngáp dài vì chán. Chuyện này chú kể lần này nữa chắc là lần thứ một ngàn lẻ một. Chú nói tướng mày giống HIV quá, ốm nhách ốm nhom, lại ngáp với gãi nữa. Tôi nói gặp con bồ khốn nạn chú ơi, khi không mà thành thằng thất tình. Rồi tôi lại ngáp.
Ai cứ thử như tôi xem, ra ngồi ở cái quán cóc ven bờ kênh đen ấy gần ba ngày ba đêm xem có ngáp không, có gãi không. Mắt thì ríu lại vì buồn ngủ, còn tay chân thì đen đặc vết muỗi chích.
Lúc ra lấy xe chở tôi về, chú nói mày là đàn ông con trai, phải anh hùng mã thượng, đừng lụy mấy đứa con gái quá mà thành thằng khùng, người ta cười cho. Rồi chú chở tôi về nhà. Chú không hề biết trong lưng tôi có lận một con dao nhọn hoắt.
Tôi không ngồi ám nhà con Thủy nữa, nhưng chẳng lý do gì phải buông tha thằng tình địch của tôi. Nó đâu xa lạ gì, nhà ở cùng đường với nhà tôi, cách bốn con hẻm. Nó lại không biết tôi. Cái đó về mặt chiến thuật là một sai lầm lớn, không biết người biết ta thì chỉ có đường chết.
Tôi canh me, mấy ngày sau thấy nó đi vào một quán nhậu nghêu sò ở cuối hẻm nhà nó. Tôi biết quán ấy, có cửa hậu mở ra con hẻm kế bên. Tôi bấm máy gọi thêm bốn thằng bạn. Bọn này dễ lắm, cứ ai gọi đi đánh nhau là phừng chí đi liền, chẳng cần hỏi han thắc mắc gì.
Tôi thầm thì cắt đặt hai thằng nổ máy xe chờ sẵn ở hẻm sau, tôi cùng hai thằng khác sẽ vào bằng cửa trước, xong việc sẽ rút ra hướng ấy. Tôi dặn dò: Mình đánh nhanh rút gọn nhé, dù sao cũng là đất của tụi nó. Chúng tôi vào quán gọi bia. Uống được quá nửa tôi ném cái vỏ chai lên mặt bàn trước mặt thằng tình địch tôi. Cú ném đủ mạnh để xô ngã mọi ly chai chén dĩa trên mặt bàn. Cả bọn nó đứng bật dậy, nhưng chưa kịp mở miệng chửi rủa đã thấy mũi dao của tôi sáng loa lóa trước mặt nó.
Tôi nói ngắn gọn: Này, con Thủy là ghệ của tao, cấm tiệt mày không được rớ vào. Lần này tao cảnh cáo, lần sau thì không giữ được cái mạng chó của mày đâu. Rồi tôi ấn dao vào người nó, ở đâu đó ngang chỗ bả vai. Sau đó bọn tôi rút đi rất nhanh, để không ai kịp phản ứng chặn lại. Tôi đãi bốn thằng bạn một chầu bia ra trò rồi ai về nhà nấy. Tôi lấy xe chạy vòng vòng hàng chục vòng bờ kênh Nhiêu Lộc, mà tự nhiên thấy buồn muốn khóc. Thấy lần đầu tiên chơi dao mình đã run tay quá cỡ. Chắc còn lâu mới thành thứ anh hùng mã thượng như chú tôi nói.
Chiều tôi chạy xe về nhà chú tôi, chơi điện tử với mấy thằng em thúc bá một lúc lâu rồi ra ngồi đồng cà phê ở khu vực hồ Con Rùa đến khuya. Khuya lại về ngủ nhà chú. Chuyện này không có gì lạ, tôi thỉnh thoảng vẫn ngủ ở nhà chú. Sáng có một tin nhắn từ máy con Thủy, chắc của thằng ấy: “May tron dang troi tao cung se tim ra. Death dang cho may. Thang cho de”.
Tôi đi với chú ra đầu hẻm nhà chú ăn sáng. Khi đang ăn tôi nói: Cháu muốn đi đâu đó một thời gian, chú có nhiều người quen ở Tây Nguyên, giới thiệu cho cháu một chỗ được không? Chú hỏi: Mày đi lên đó làm gì? Bộ thất tình nặng đến thế sao? Tôi nói: Cháu nói nghiêm túc, ở đây cháu không làm nên trò trống gì cả. Cháu nghĩ mình nên đi đâu đó học sống với người ta. Chú nói: Ờ, để tao hỏi mẹ mày. Lúc đó tôi nhận thêm một tin nhắn, giọng điệu nhẹ nhàng hơn, của con Thủy chăng: “Choi nhu vay la qua hen!”. Tôi không hiểu chữ cuối. Quá hên hay là quá hèn. Tôi không nhắn lại. Thủy đối với tôi bây giờ, chỉ thấy hận thù và vô nghĩa. Chú tôi là tài xế xe tải, chuyên chạy đường quốc lộ 14, mấy hôm sau có chuyến, biểu tôi sửa soạn đi. Tôi gỡ sim, ném chiếc di động lên nóc tủ nhà chú trước khi lên đường.
Ngủ gà ngủ gật trên ca-bin chừng bốn năm tiếng đồng hồ thì đến một thị trấn không lớn cũng không nhỏ, có nhiều nhà cửa mới xây, còn mới toanh. Chú nói: Đây là thị trấn K. thuộc tỉnh Đak Nông, ở gần Sài Gòn nhất đấy. Bạn thân của chú ở đây, để chú hỏi thử xem sao. Chú chạy xe thêm một đoạn nữa tới ven thị trấn thì dừng. Chú đậu xe bên lề, nhảy khỏi xe, đi vào một tiệm bán tạp hóa.
Tôi cũng nhảy ra, đứng vẩn vơ trên lề đường, đợi. Tiệm tạp hóa bán đủ thứ: đồ điện, đồ nhựa, nồi niêu xoong chảo, nông cụ các loại, cùng với gạo than mắm muối đủ cả..., ngoài cùng chất một đống hũ có thắt quai xách, buộc thêm mấy cái ống trúc, dán nhãn Rượu cần. Một lát, một người đàn ông da đen nhẻm theo chú tôi đi ra. Chú nói: Đây là chú MPông. Còn đây là thằng Hữu, cháu tôi. Có chuyện gì MPông cứ biểu nó làm, nếu nó làm không được thì chịu khó chỉ dạy cho nó. Được như vậy tôi cám ơn nhiều lắm. Chú MPông trông dáng hiền lành, chỉ cười cười, nói: Tôi đâu dám, đâu dám...
Khi tôi theo chú tôi leo lên ca - bin lấy bọc quần áo, chú nói: Tao dặn nè, đi làm ở nhà người ta thì phải biết điều, không làm chuyện gì trái ý người ta, cũng không làm chuyện gì mang tiếng xấu cho tao, sau này tao còn phải nhìn mặt người ta nữa. Ở đây chắc chắn là buồn hơn ở Sài Gòn nhiều, nhưng buồn tới mấy cũng phải ráng ở cho được đôi ba tháng, đừng có ba ngày đã đòi về, người ta cười cho. Ráng đi, rồi đời sẽ dạy cho mày nhiều thứ. Cái đó kêu bằng trường đời. Cứ như tao đây này, toàn là học ở trường đời, chớ có đi học trường học bao nhiêu đâu.
Tôi tưởng lên Tây Nguyên sẽ thấy toàn nhà sàn, thấy con gái ở trần tắm suối. Nhưng không phải vậy. Nhà chú MPông có phòng tắm riêng, nức mùi xà bông thơm, trong treo mấy cái quần jeans mặc dở và áo thun con gái. Nhà gian ngoài bán tạp hóa, gian trong là phòng chung có một tấm màn kéo ngang để ngăn cách với chỗ ngủ. Phòng chung rộng, dựng mấy chiếc xe gắn máy. Khi tôi vào, cái ti vi đang bắt đài VTV, chương trình Giai điệu bốn phương. Madonna mặc một chiếc váy đỏ đang uốn éo hát. Một đám trẻ con mặt mũi vằn vện màu đất đỏ nằm ngồi xem ti vi, dò dẫm nhìn tôi làm quen.
Vợ chú MPông vẻ mặt chơn chất, vừa cười vừa nói: Tôi với tụi nó nói tiếng người Kinh không có giỏi đâu. Ngồi chơi một lát chú MPông dắt tôi ra dãy nhà sau, nói: Nhà trước chật, để đàn bà con nít tụi nó ngủ, cháu ngủ đàng sau này. Nhà sau là nhà sàn, cách nhà trước một vườn cà phê nhỏ chừng ba bốn mươi gốc. Nhà sàn vách gỗ, sàn gỗ, đã dùng lâu, lên nước nhẵn thín. Gió thổi vi vút qua mấy khe gỗ hở. Chú nói: Nhà này là nhà cũ, ở đã lâu rồi, còn nhà kia mới xây hồi năm ngoái. Cháu ở Sài Gòn vui quen rồi, ở đây thấy buồn há? Chiều tối thằng BRiêng nó về chú biểu nó chở cháu lên phố chơi. Ở trển có quán bi - da mới mở, chơi cho vui...
Không có chiếu, tôi kê bọc quần áo dưới đầu ngủ một giấc ngắn, thấy Sài Gòn xa lắc xa lơ như thuộc về một thế giới nào khác. Vết dao đâm vào vai thằng tình địch cũng xa, cũng quên mất, như chuyện của ai không phải của mình... Gần tối có một thằng con trai trạc tuổi tôi đến đánh thức tôi dậy. Nó nói: Anh gì ơi, dậy đi ăn cơm. Tôi dậy, nói: Tôi tên Hữu. Nó nói: Tôi là BRiêng.
Bữa cơm dọn ở phòng chung, dưới cái bóng đèn tròn yếu điện tối lù mù. Ngoài lũ trẻ con và những người lớn đã biết, còn có một đứa con gái tuổi dậy thì. Chú MPông nói: Đây là con gái lớn của chú, học trường dân tộc nội trú, lúc này nghỉ hè nên về nhà. Em nói: Tên tiếng Kinh của em là Bình, anh cứ gọi là Bình cho dễ. BRiêng và Bình nói tiếng Kinh rất giỏi, giọng Bắc.
Bữa cơm có cá khô mặn chát, muối ớt và đọt mây luộc. E tôi không nuốt nổi vị đắng của đọt mây, họ nấu thêm mấy gói mì tôm. Cơm xong BRiêng tống ba, chở tôi và Bình ra chợ chơi. Phố chợ lèo tèo, toàn lên dốc xuống dốc, quán bi - da cũng lèo tèo, nên chạy loanh quanh một lát rồi về, xin chú MPông một hũ rượu cần nhỏ uống chơi cho biết. Chú nói: Rượu này không phải nhà làm, không ngon đâu. Nhưng chú cũng cho. Rượu ngâm một thứ rễ lá gì đó, ngâm đủ thì gây say, ngâm dư thì gây độc, muốn uống phải đổ nước rồi cắm ống trúc vào mà hút. Rượu không dễ uống, đắng lắm, chắc vì pha ít nước quá. Tôi uống không nhiều, thế mà té lên té xuống mấy lần khi băng qua vườn cà phê về chỗ ngủ. Không biết mình say vì rượu hay vì buồn.
Tôi thân với BRiêng khá nhanh. Nó là anh họ của Bình, học trường nội trú ở thị xã Gia Nghĩa, hễ hè là về đi rừng cho chú MPông. Chú MPông nói: Năm sau tốt nghiệp xong BRiêng sẽ thi vào trường Đại học Tây Nguyên. Thế hệ của chú già rồi và ngu dốt, chỉ trông cậy vào thế hệ trẻ mà thôi. Chúng nó sẽ đưa xã hội này tiến lên, đuổi kịp nền văn minh thế giới. BRiêng cười: Cháu chỉ mong sao học cho kịp người ta rồi tìm được việc làm là tốt lắm rồi, chú nói gì nghe to tát thế?
Bình thì không giấu giếm gì, tỏ vẻ say mê tôi ngay từ lúc gặp đầu tiên. Có lẽ vì thứ con trai thành phố trắng trẻo mảnh khảnh là của hiếm ở đây. Bình dáng người chắc khỏe, môi vừa dày vừa ướt vừa cong. Nhìn em thấy ngay sự đa tình, đam mê tràn trề trong em.
Hôm sau tôi đi vào rừng với BRiêng. Cùng đi còn có thằng Thanh người Quảng Ngãi, đến xứ này để làm thuê từ năm ngoái. Chú MPông nhận của nhà nước mấy chục héc-ta trong chương trình trồng rừng, thu huê lợi từ việc chặt tỉa những cây ngắn ngày để nuôi dưỡng lại các loài gỗ quý vốn đã bị khai thác gần như cạn kiệt. Đợt này chúng tôi đi chặt những cây tre lồ ô đã đủ tuổi.
Rừng ở xa, xe tống ba chạy mười mấy cây số đường đất đỏ thì vào đến cửa rừng. Từ đấy đi vào càng sâu đường càng hẹp và gập ghềnh khó đi, nhiều lúc phải nhảy xuống dắt xe qua những chỗ nước chảy khoét thành hố sâu. Rừng mát lạnh và nhiều tiếng chim kêu. Gió thổi rì rào qua kẽ lá. Khoảnh rừng của chú MPông có suối chảy qua, nước không quá sâu nhưng rất xiết, chảy thêm một khúc quanh co thì rơi xuống vực thành thác. Vực sâu lắm, toàn đá, rơi xuống thì chỉ có chết.
Lán trại đã được dựng sẵn trên một mặt đá phẳng bên bờ suối. Trong lán có vạt tre để ngủ, có ba cục đá kê trong góc làm bếp. Xó lán dựng dụng cụ làm việc, và bình ắc-quy điện với một bóng đèn nê-ông bốn tấc. Chúng tôi dỡ gạo và ba lô, quần áo trên xe xuống, xong bắt đầu xách rựa đi chặt tre. Đất này toàn tre là tre, không thấy thứ gì khác, không thấy cây gì có vẻ là gỗ quý đang được nuôi dưỡng cả.
Tôi lóng ngóng cầm lấy cây rựa. BRiêng dạy tôi chặt tre: bên phải một nhát, bên trái một nhát. Không, độ nghiêng của cái rựa phải như thế này này. Thứ tre lồ ô này ruột rỗng, dễ chặt, phải làm sao hai nhát là dứt điểm, cây tre phải rời ra khỏi gốc. Không chặt cù nhây. Cây tre phải rơi xuống theo chiều thẳng đứng, không được rơi nghiêng. Anh coi chừng cái bàn chân của anh đấy, chớ để cây tre mới chặt rơi vào, có
khi nó xắn đôi bàn chân ấy chứ. Cũng cẩn thận đừng dẫm lên gốc tre mới chặt, kẻo thủng chân...
Thằng Thanh lầm lì chẳng nói gì, nó lẳng lặng chặt, tay nhanh nhoay nhoáy, rồi kéo ra, róc cành, chất thành đống. Tôi vẫn lóng ngóng với cái rựa, chẳng được bao lâu mồ hôi đã tươm ướt áo. Một lúc nữa thì tay bắt đầu rướm máu, rồi đến chân vướng vết tre cắt, cũng rướm máu. Tôi cắn răng, cố nén những tiếng kêu đau đớn. Cứ như vậy, cho đến chiều thì tôi chặt được tre. Chậm, và đau đớn, nhưng cũng là chặt được.
Tối đó mỏi mệt, người đau như dần, tôi không ngủ được. Nằm nghe tiếng nước suối chảy róc rách róc rách triền miên không dứt, rồi cứ nhớ tiếng róc rách của những con suối giả chảy trong những quán cà phê ở Sài Gòn. Gần sáng thì trời mưa. Tiếng mưa ở rừng buồn như tiếng khóc. Năm giờ thằng Thanh dậy, lúi húi nhóm bếp nấu cơm. Nó hỏi: Anh không ngủ được à? Nhớ nhà phải không? Rồi nó tiếp: Hồi em mới lên đây cũng vậy, cũng nhớ nhà ngủ không được. Nhiều bữa muốn chết cho rồi, hoặc là bỏ về quê cho rồi, vậy mà bây giờ cũng quen, cũng sống được. Tôi không nói gì, cố nuốt tiếng thở dài xuống bụng, mắt nhắm lại cho đỡ nhức.
Vài hôm một lần, chú MPông lại chạy xe công nông kéo rơ-moóc vào chở tre ra. Chúng tôi thường theo xe ấy hoặc đèo nhau trên xe gắn máy về. Có khi về một thằng, có khi về cả ba. Ở lại thị trấn có khi một ngày, có khi ba bốn ngày, công việc không có gì gấp rút, căng thẳng. Chú tôi có ghé qua vài ba lần gì đó, nhưng không lần nào gặp tôi. Tôi với Bình dần dần cũng thân, mỗi lần về thị trấn tôi hay đèo em đi chợ hoặc đi uống cà phê buổi tối, hoàn toàn không rung động xúc cảm gì. Không phải không thương mến em, nhưng đi như đi với em gái tôi ở nhà vậy thôi. Em lại mê tôi, mê đắm mê đuối. Nhưng mà làm chi cơ chứ, làm chi cái thứ anh hùng trong những câu chuyện tình mới lớn ấy cơ chứ. Sao đời không đơn giản, lại cứ toàn những chuyện tréo ngoe?
***
Cứ thế mà tôi đi được một quãng đường dài trong cuộc đời tôi. Quãng đường ấy dài đôi ba tháng hay dài một trăm năm?
Một lần kia tắm suối tôi bị trượt chân. Dưới đáy suối toàn đá và rong rêu, trơn kinh khủng. Lần ấy quá bất cẩn, tôi bơi ra giữa dòng đứng tắm. Không ngờ dòng nước xiết xô tôi ngã, để rồi tôi không thể nào gượng dậy được nữa. Sức nước bắt đầu cuốn tôi đi. Tôi giãy giụa, quẫy đạp, la hét nhưng không làm sao chống lại được làn nước cuốn. Đằng kia là đỉnh thác. Trong đầu tôi hiện rõ lên ý thức về cái chết, rõ ràng và sáng lòa như một ánh chớp.
Lúc đó BRiêng đang ở khá xa, đang cho nước vào mấy đoạn tre lồ ô để chuẩn bị nấu uống, thì nghe tiếng la hét của tôi. Nó nhìn lên, cân nhắc tình hình, rồi chạy lại nhảy xuống suối cứu tôi. Khi đã hoàn hồn tôi nói: Cám ơn BRiêng nhé, không có BRiêng chắc tôi chết. Nó cười, nói: Không có đâu, đằng kia có một cành cây lớn sà ngang sát mặt suối, thế nào anh cũng níu được mà, không có chết đâu. Tôi hỏi nếu biết tôi sẽ níu được cành cây thì BRiêng còn nhảy xuống nước kéo tôi vào làm chi cho mệt? Nó cười, không trả lời, bỏ đi vào lán tìm quần áo khô cho tôi. Lần đó là một kinh nghiệm lạ thường mà tôi từng trải qua, là kinh nghiệm về cái chết khi nó tiến đến sát mình.
Về sau tôi hay đi men theo bờ suối, ra đến chỗ cành cây gie ra la đà trên mặt suối, rồi cứ đứng nhìn nó, và suy nghĩ vẩn vơ mãi. Nhìn mãi, cân nhắc mãi, vẫn cứ thấy khả năng tôi bám được cành cây và không bám được là năm mươi năm mươi. Nếu tôi không bám được, thì có thể BRiêng cũng sẽ không bám được, và hành động nhảy xuống suối cứu tôi khi ấy phải chăng là một hành động liều lĩnh đậm tính chất anh hùng? Còn nếu chắc chắn tôi sẽ bám được nhánh cây ấy thì BRiêng còn nhảy xuống suối làm gì? Chỉ để làm một hành động thừa thãi, vô nghĩa? Hay là giữa hành động anh hùng và hành động vô nghĩa thật ra chỉ cách nhau một lằn ranh mong manh, không phân biệt được? Nhưng dù sao, tôi cũng cho rằng mình nợ BRiêng một ơn cứu tử.
***
Về sau tôi phải xa rời vùng đất này, cũng bất ngờ như lúc đến. Lần đó tôi về thị trấn một mình để mua thêm thức ăn và sạc bình ắc-quy. Suốt buổi chiều tôi nằm vật vựa ở nhà sau để ngủ, định sáng ngày mai lên rừng sớm. Tối Bình băng qua vườn cà phê xuống tìm tôi. Có lẽ tục lệ hỏi chồng, cưới chồng của dân tộc em đã khiến em có một vẻ gì rất chủ động, sôi nổi, mà ngây thơ, đơn giản, như đất như rừng ở quanh em vậy.
Người em nóng rừng rực, mắt long lanh, và giọng lạc hẳn đi khi gọi tên tôi. Sự ham muốn hừng hực bao bọc lấy em, lây chuyền qua tôi, làm tôi cũng bừng bừng nóng lên. Em và tôi không nói với nhau một lời, cứ lẳng lặng lăn vào nhau, cuốn vào nhau, sôi sục như núi rừng, dậm dật như những con thú hoang... Nhưng ngay khi ấy, khi đã giật hết áo xống em ra và đang dang tay quấn chặt thân thể nóng rẫy của em, thì một ý nghĩ lướt qua đầu tôi, rõ mồn một như dòng chữ điện tử chạy qua màn hình vậy. Rằng chú MPông là người cưu mang tôi, còn thằng BRiêng là người cứu mạng tôi. Tôi còn phải nhìn mặt họ. Không thể nào trả các món nợ ân tình bằng trò phản phé được.
Thế là tôi xô Bình ra, phóng vội ra chỗ mấy cây cà phê tối om om, tự tát liên hồi vào mặt mình chanh chách, cho đến khi hạ hỏa. Một lát, người đã nguội, tôi quay vào. Bình đã mặc lại quần áo, ngồi thu lu trên sạp, ngước đôi mắt to nhìn tôi. Tôi nói: Bình ơi, anh em mình đi uống cà phê đi. Rồi em và tôi đi uống cà phê, giấu các ý nghĩ của mình vào trong, không ai đá động gì tới chuyện đã qua.
Thành ra trận đòn mà tôi phải chịu là một trận đòn oan. Sáng hôm sau tôi bắt xe ôm đi lên rừng. Đường vắng teo. Chạy đến gần cửa rừng thấy có chiếc xe tống bốn chạy phía sau nhưng tôi không để ý, cho rằng cũng là bọn đi làm rừng như mình. Không ngờ đi vào sâu một chút thì bọn chúng ép xe. Chúng đuổi thằng xe ôm đi, rồi nhất loạt áp vào đánh tôi. Đòn chúng ra rất mạnh, tôi đổ máu mặt máu mũi rất nhanh và rất nhiều. Răng gãy, tay chân bầm dập, đau đớn khủng khiếp.
Tôi không đỡ được đòn nào, cũng không đánh trả được đòn nào, cơ hồ chết đi sống lại. Chừng thấy đã đủ, một thằng nhảy ra ngoài nói: Thôi được rồi tụi bây, để tao nói chuyện. Nó nói: Này thằng công tử thành phố kia nghe đây, mày phải cút biến khỏi nơi này ngay. Cứ léng phéng cà phê cà pháo anh anh em em với con Bình thì có ngày tao đập chết. Còn bây giờ, muốn tao tha cho thì phải bò bốn chân mà liếm dép cho tao. Liếm cho sạch, cho không còn chút máu chó nào của mày dính trên dép tao. Liếm không sạch, bọn tao đánh nữa.
Nói rồi nó đứng dạng chân ra chờ, miệng thì cười ha hả, cái cười cực kỳ đểu cáng. Đầu óc trí não tôi lúc ấy đã mờ mịt lắm rồi, chập chờn giữa tỉnh và mê, vẫn còn hiểu được rằng lúc này không còn vinh hay nhục, anh hùng hay tiểu nhân nữa, nếu không làm theo lời nó thì chỉ có bỏ xác giữa rừng. Tôi lết tới và bắt đầu liếm. Miệng tôi sưng vều lên vì bầm dập, và máu, và cát, và nỗi hận thù đang cắn răng nuốt xuống. Tôi liếm cũng lâu lắm, cho đến khi nó chán, rút chân lại, và nói: Lần này tao tha cho đấy, cút mẹ bản mặt mày đi. Cái thứ hèn như mày sống chỉ chật đất...
Rồi bọn chúng lên xe, rút lui. Lần này thì thằng xe ôm cứu tôi. Tôi áp hết cả mặt mũi người ngợm bê bết máu vào lưng áo nó để nó chở đi bệnh viện, cách đó hàng chục cây số.
Rời thị trấn K. tôi không về nhà mà ra Phan Rang, tìm đến nhà một thằng bạn cũ. Tôi ở lại đó gần một năm, phụ việc cho cơ sở giữ trẻ tư gia của gia đình nó. Tôi đút cơm, thay quần áo, rửa đít và cốc đầu lũ trẻ nít suốt ngày bò lê la trên nền gạch. Công việc này thật ra lại cho tôi nhiều thời gian để học được nết kiên nhẫn, để kịp kéo da non các vết sẹo trên thân thể tôi và trong tâm hồn. Sau đó tôi về nhà. Coi như đánh một vòng tròn trở về chốn cũ.
Vừa trông thấy tôi bước vào cửa, mẹ tôi đã mắng té tát cho một thôi một hồi, y như ngày trước, y như là tôi mới vừa đi chơi đâu đó một hai ngày về: Mày bỏ đi gần hai năm trời nay, không nhắn về một cái tin nhỏ. Mày đâu có quan tâm gì đến cái nhà này, giống như không hề có cái gia đình khốn nạn này trên đời mà. Bây giờ về, thì thân tàn ma dại thế kia. Lại đánh lộn với đâm chém chứ gì? Trời ơi, biết tới bao giờ mày mới sống cho đàng hoàng, cho ra con người? Tôi nói: Mẹ ơi, con về đây là muốn đi học lại, muốn sống khác hơn, mẹ đừng nói vậy nữa...
Tối. Em gái tôi đi học về, nó hỏi: Anh biết chuyện bà Thủy không? Tôi đáp: Tao không biết. Nó kể: Tết vừa rồi, khi bả đang có bầu to vượt mặt thì thằng đó đi làm đám cưới với con khác. Bả ôm cái bầu một thân một mình đi tới quậy đám cưới. Không dè tụi bảo kê nhà hàng đâu có kiêng dè gì chuyện bầu bì, dập cho bả một trận phải đi bệnh viện sanh non luôn. Bây giờ bả vừa nuôi con một mình vừa vác đơn đi kiện tụng tùm lum. Nhiều khi thấy cũng tội. Phải chi hồi trước bả đừng bỏ anh, chắc anh cũng không đến nỗi phải đi giang hồ.
Tôi nạt nó: Thôi đi, mày biết gì mà nói. Đời toàn những chuyện chó đẻ, ai cũng vậy thôi, biết sống sao cho đúng hả? Nó nói: Nhưng vẫn phải sống thôi, rồi vừa sống vừa học lấy kinh nghiệm. Kinh nghiệm nào cũng phải tự mua với cái giá của nó. Tôi nói: Sao mày nói chuyện giống bà già thế? Nó im. Nhưng tôi nhận ra rằng con em tôi, dù chỉ toàn ở nhà, vậy mà không hiểu sao cũng học được những thứ mà tôi phải trầy vi tróc vảy mới biết được một cách lờ mờ...
Tối đó, cái tối đầu tiên trở về lại Sài Gòn, tôi lấy xe chạy tuốt lên đến tận cầu Đồng Nai. Dựng xe bên thành cầu, tôi thỏa sức hét la cùng lũ xe ben, xe tải, xe container đang chạy ầm ầm triền miên không dứt qua cầu. Vết thương trong lòng tôi tưởng đã kéo da liền sẹo, bỗng chốc mở ra toang hoác. La hét chán, tôi gục đầu xuống thành cầu mà khóc. Khóc xong lại ngửa mặt mà cười sằng sặc.
Như một thằng điên.
(Theo Thanh Niên)