Giáo sư Xoay
Theo ông thì càng về sau vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển sẽ càng phức tạp, lúc đó những chiếc nhà giàn này sẽ là cột mốc chủ quyền của chúng ta. Vậy là 20 chiếc nhà giàn DK 1-2 mọc lên như những vọng gác của Việt Nam giữa biển khơi mênh mông. (hiện còn 15 chiếc do 5 chiếc đã bị giông bão quật đổ).
DK là viết tắt của chữ Dịch vụ - Khoa học kỹ thuật, được hiểu như một công trình phục vụ mục đích dân sự trên biển. DK 1 là những nhà giàn ở vòng ngoài, xa nhất, phía bên trong gần đất liền hơn là hệ thống DK 2. Đoàn chúng tôi sẽ đến thăm nhà giàn Phúc Tần thuộc hệ thống DK 1, chiếc này năm 1993 đã đổ một lần làm hy sinh ba chiến sĩ. Xung quanh có thể nhìn thấy hai chiếc nữa phía xa xa, còn một chiếc nữa thì xa quá, chúng tôi không nhìn thấy bằng mắt thường.
Nhận nhiệm vụ canh gác cho 4 chiếc nhà giàn này là một chiếc tàu chiến của Hải quân Việt Nam, khi đoàn còn cách nhà giàn một đoạn thì chiếc tàu chiến kia đã chạy ra "đón" chúng tôi trước. Nó chạy ngược chiều bên mạn trái tầu HQ936, toàn bộ thủy thủ, chiến sĩ trên tàu trang phục chỉnh tề đứng nghiêm trang trên boong hướng về HQ936 và chào theo nghi thức nhà binh. Thêm một lần nữa chúng tôi lại ngưỡng mộ các chiến sĩ hải quân Việt Nam trong việc thực hiện các nghi thức quân đội một cách hết sức nghiêm túc. Cả đoàn chúng tôi mặc áo cờ đỏ sao vàng đứng trên boong tàu vẫy chào lại các anh tíu tít.
Tàu chúng tôi thả neo cách nhà giàn một đoạn, do tàu lớn nên không thể cập mạn sát sợ va chạm có thể làm đổ nhà giàn. Tuy nhiên chúng tôi gặp may vì thời tiết đẹp, nên chỉ huy tàu cho phép cả đoàn có thể lên 4 chuyến xuồng để tới nhà giàn thăm các anh cán bộ chiến sĩ. Đây là lần đầu được rời tàu trên biển, cả đoàn thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc an toàn như mặc áo phao, đi dép nhựa quai hậu và phải đứng nghe hướng dẫn của các cán bộ tàu HQ936 về cách thức lên xuống nhà giàn và tàu bởi chỉ một sơ sảy cũng có thể làm chúng tôi ngã xuống nước hoặc gặp những chấn thương nặng.
Nhà giàn Phúc Tần. |
Chuyến xuồng thứ nhất chuyển lãnh đạo đoàn, phóng viên và quà đi trước, tôi đi vào bằng chuyến xuồng thứ hai, đội văn công và các anh em khác vào chuyến thứ ba, thứ tư. Sóng biển làm mạn xuồng cứ bập bềnh bập bềnh, chúng tôi đứng trên mạn tàu, lựa đúng thời điểm mạn xuồng đang bị đẩy lên thì nhanh chân bước xuống mạn xuồng rồi nhảy xuống ngồi ngoan ngoãn trên ghế băng. Nếu bước lúc mạn xuồng đang hạ xuống thì sẽ bị hụt chân ngã hoặc bị mạn xuồng đẩy lên trở lại kẹp vào chân. Chiếc ca nô máy có nhiệm vụ kéo xuồng lượn vòng vòng khá điêu luyện để nối các đoạn dây với xuồng rồi kéo đoàn chúng tôi vào gần nhà giàn.
Sóng biển ngay sát bên chúng tôi, nước trong và đẹp, nhưng lộn cổ xuống thì chưa biết thế nào vì dòng biển chảy khá mạnh. Từ xa nhìn lên, các anh chiến sĩ trên nhà giàn đã đứng đợi sẵn, miệng cười tươi rói. Đáng ra các anh đã được tiếp đoàn cán bộ của 54 dân tộc đến thăm nhưng không may đúng hôm biển động, không thể hạ xuồng xuống biển được nên đành ngậm ngùi đứng nhìn nhau.
Chiếc nhà giàn như một chiếc tổ chim đứng trên bốn chiếc trụ sắt, phía bên trên diện tích chỉ có mấy chục mét vuông. Xuồng cập vào chân nhà giàn, sóng vỗ ì oạp, những chiếc trụ nhà giàn bám đầy những con hà cạnh sắc lẹm cứ cọ qua cọ lại vào thành xuồng. Từ mặt biển lên nhà giàn là một chiếc cầu thang dài khoảng 4 mét. Chúng tôi lại thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc lên xuống xuồng, chúng tôi đứng một chân lên thành xuồng, chọn đúng thời điểm xuồng bị sóng nâng lên thì nhanh chóng chộp vào thang và bước chân lên. Có lẽ những nụ cười và lời chào hỏi rộn rã phía trên như thể một sự hối thúc, chúng tôi leo lên cầu thang nhoay nhoáy, chỉ muốn lên nhanh để bắt tay các anh.
Các anh cũng nhận ra tôi là giáo sư Xoay nên bắt tay chặt lắm, có anh quan tâm còn hỏi: "Giáo sư không ở nhà làm Hỏi xoáy đáp xoay thì thứ bảy này tôi xem cái gì?". Các anh có biết là trước khi đi, tôi đã quay một mạch mấy số làm "lương khô", phát vô tư, lo gì. Tôi hăm hở chạy lên những bậc thang sắt dẫn lên những khu nhà phía trên, chắc chỉ rộng khoảng mấy chục mét vuông mà thôi. Tôi sục từ phòng này sang phòng nọ để tìm xem mấy cây guitar quà tặng đâu, tôi phải lên dây đàn lại để còn chơi phục vụ các anh. Chạy qua phòng của chỉ huy, thấy anh Nam già đang ngồi ngó ngó nghiêng nghiêng chồng sách và cái mũ hải quân, chắc lại định chụp ảnh. Tôi lên dây đàn xong bước vào phòng họp thì thấy câu chuyện giữa lãnh đạo đoàn và lãnh đạo nhà giàn cũng vừa mới bắt đầu.
Sau phần chào đón đoàn của anh Trang Hải Âu - chỉ huy nhà giàn, câu chuyện của chúng tôi cũng có phần thân mật hơn. Chia sẻ những khó khăn, anh Âu kể anh đã có mặt trên nhà giàn này 17 năm trời, mỗi năm chỉ có mấy tháng trời yên biển lặng, còn đâu là bão là giông. Có những trận bão mạnh, nhà giàn rung lên bần bật. Thường thì bão to quá các anh sẽ phải xuống tàu nhưng một chiếc tàu phải lo cho cả bốn cái nhà giàn, lại lúc đêm hôm thì mọi việc không hề đơn giản.
Mỗi một anh ở đây ngoài là một cán bộ chiến sĩ nhà giàn, họ cũng có đầy đủ những trách nhiệm của người chồng, người cha, người con... như bao người đàn ông khác, nhưng thực hiện những trách nhiệm đó thì khó khăn vô kể. Có anh nghe tin mẹ mất mà không thể về chịu tang, mấy tháng sau mới có thể về được. Có anh thì vợ sinh con xong bị hậu sản mất, con thì nằm trong lồng kính mấy tháng trời mà cũng không thể về được, đêm nào cũng thắp hương cúng vong... Mấy cô gái trong đoàn chúng tôi ngồi nghe chuyện bật khóc lúc nào không hay.
Cây đàn trên tay tôi như thể vô duyên trong cái không khí trầm lắng đó, cả phòng cứ lặng đi, tôi đánh liều phá vỡ bầu không khí đó: "Anh em mình hát một bài đi ạ!". Lau vội những giọt nước mắt, chúng tôi cùng các anh vỗ tay hát vang: "Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi, vì nhân dân quên mình...".
Thiếu tá Trang Hải Âu - chỉ huy nhà giàn. |
Anh Trang Hải Âu kể thêm những câu chuyện về những con tàu của ngư dân gặp nạn, hết lương thực, hết dầu, dạt vào gần nhà giàn. Gặp các anh mà mừng quá quỳ sụp cả xuống mà khóc cảm ơn trời. Các anh lại chia gạo, chia nước ngọt, chia dầu cho ngư dân, rồi hỏi tàu còn gì ăn. Ngư dân bảo chỉ còn cá, thế là các anh lại chạy lên mấy cái hộp đất trồng rau vặt một ít đem cho. Những thứ đơn giản như gạo, nước, rau... ở đất liền thì dễ kiếm, chứ giữa biển khơi thì đó đồng nghĩa với sự sống vô giá nên được chắt chiu và sử dụng rất tiết kiệm. Có lẽ chính vì nó quý như vậy nên nó mới thường xuyên được các anh đem sẻ chia với đồng bào mình trong cơn hoạn nạn khốn cùng.
Anh Âu tự hào nói: "Chúng tôi phải khẳng định rằng nhà giàn đã thắng lợi, vì càng ngày tôi thấy tàu cá của ngư dân mình ra đây đánh bắt càng nhiều. Chừng nào còn chúng tôi ở đây thì bà con cứ yên tâm mà ra đánh cá". Một lời hứa chắc nịch của những người chấn giữ nơi đầu sóng ngọn gió đó đã khiến chúng tôi chợt cảm thấy mình sao mà nhỏ bé với những toan tính thường ngày.
Đoàn nghệ thuật Quân khu 4 cũng đã lên đến nhà giàn, chị Bích Ngọc với những bài dân ca ngọt ngào như đem cả quê hương nơi đất liền đến với nhà giàn của các anh, tôi tranh thủ đi loanh quanh thăm những vườn rau và hệ thống điện mặt trời, điện gió của các anh.
Từ trên cao nhìn xuống mặt biển xanh trong và đặc biệt là rất nhiều cá, dòng nước xoáy vào chân nhà giàn đã vô tình làm giầu ô xy cho vùng nước đó nên cá tập trung lại bơi ngược dòng chảy, nhìn từ trên cao chúng như một ruộng mạ mới cấy vậy. Mấy anh em trong đoàn tranh thủ quăng dây câu xuống giật. Mấy chiến sĩ của nhà giàn đứng nheo nheo mắt nhìn tủm tỉm cười. Tưởng các anh lạ mắt với màn câu cá nhưng thực ra không phải, khi tôi hỏi "các anh không bắt cá dưới kia à?" thì mới hay mấy con cá nhỏ đó thi thoảng các anh chỉ bắt lên băm nhỏ làm phân bón rau thôi, còn khái niệm cá để ăn ở đây thì các anh phải câu toàn cá thu trên chục cân, mới hôm qua câu được một con to lắm, ăn chả hết thịt. Anh em trong đoàn lắc đầu tặc lưỡi.
Thông thường các đoàn đến nhà giàn chỉ được cử đại diện vào, tàu chúng tôi là tàu đầu tiên đưa được toàn bộ hơn 100 người vào nhà giàn. Cũng chính sự đông vui này mà chúng tôi cứ hết đoàn này đến đoàn nọ quyến luyến mãi, hoàng hôn ập xuống lúc nào không hay. Hoàng hôn trên biển ngoài đẹp và lãng mạn ra thì còn kèm theo sóng to gió lớn. Những chiếc xuồng dưới chân nhà giàn vùng vằng như con ngựa bất kham khiến việc về tàu khó khăn hơn rất nhiều.
Tôi về chuyến xuồng thứ ba, trời đã xâm xẩm tối, đợi cho cả đoàn xuống hết được xuồng thì chiếc xuồng đã mấy chục lần va đập vào chân nhà giàn, có phen tưởng lật cả xuồng. Nói dại chứ lật xuồng giữa dòng chảy xiết khi nhá nhem tối này thì có mà giời vớt. Những cơn sóng lúc này có khi cao cả mét, chị em ai mà yếu đuối thì khuyến cáo là leo thang không được nhìn xuống kẻo khiếp quá. Để giải quyết vấn đề run sợ dễ gây nguy hiểm khi lên xuống không dứt khoát của chị em, các anh lính bế xốc luôn từng người một từ trên thang xuống xuồng. Chiếc ca nô ì ạch kéo chiếc xuống lách qua những cơn sóng cao để đưa chúng tôi về tàu.
Chuyến xuồng cuối cùng thì thực sự nguy hiểm, chúng tôi đứng trên tàu HQ936 dõi về hướng chiếc xuồng cuối. Trời tối rất nhanh và sóng biển dữ dội hơn rất nhiều. Cá nhân tôi thì lo hơn một chút vì chuyến xuồng này có anh Nam già. Trước khi đi, vợ anh ấy đã dặn dò tôi trông chừng anh ấy vì tính anh ấy hay nghịch ngợm, thích khám phá cảm giác mạnh. Chiếc tàu quân sự coi nhà giàn dường như cũng nhận ra sự nguy hiểm của đêm đen đang đến nên đã chạy lại và bật đèn pha soi cho chiếc xuồng này chạy về HQ 936. Xuồng cập mạn tàu, anh em nhao cả lên, đến lúc mọi người đã an toàn trên tàu thì thủy thủ đoàn mới thở phào bộc bạch: "Đây là lần đầu tiên bọn anh liều đến vậy, chứ thông thường chuyến xuồng như vừa rồi là bị cấm không được đi đấy, vì nó quá nhiều bất trắc". Thế mới biết đoàn chúng tôi may mắn thế nào.
Lễ tưởng niệm các anh chiến sĩ đã hy sinh trong quá trình công tác tại nhà giàn diễn ra sau đó ít phút trên boong tầng hai. Khói hương nghi ngút và những lời tưởng niệm sự hy sinh của các anh được Đại tá Nguyễn Đăng Nghiêm kể lại, đôi chỗ nghẹn lại. Có anh khi cơn bão ập đến không xuống tàu, ở lại bảo vệ nhà giàn, nhà giàn bị sóng gió quật đổ, anh chỉ kịp gửi lời vĩnh biệt qua bộ đàm về đất liền. Có anh thì nhường cho chiến sĩ trẻ áo phao và thức ăn, còn mình thì mãi hòa vào sóng nước... Đứng giữa biển trời nơi các anh ngã xuống, những cơn gió thổi nhè nhẹ như mang các anh về đâu đây. Chiếc HQ936 rúc lên 3 hồi còi vang vọng cả một vùng như lời gọi các anh.
Chúng tôi xếp hàng thắp hương lên chiếc vòng hoa và mỗi người cầm một bông hoa để thả xuống biển. Thật kỳ lạ, chỉ ít phút trước biển dữ dội là vậy, thế mà giờ chợt lặng sóng và thật êm đềm. Chiếc vòng hoa tưởng niệm thả xuống trôi nhẹ dần vào khoảng biển tối đen phía xa tàu, chúng tôi thả hoa, thả gạo, thả muối, rồi cả bia, nước ngọt và thuốc lá xuống biển cho các anh. Những tờ tiền, vàng mã cũng được thả xuống... Chúng tôi chẳng ai nói với ai, cứ đứng bên mạn tàu nhìn về khoảng biển tối đen phía trước như tìm kiếm, như tâm sự. Biển thật khó hiểu, lúc thì dữ dội điên cuồng, lúc thì lại bình yên đến lạ. Cầu cho hương hồn các anh yên nghỉ giữa biển trời đất nước, quê hương.
Vài nét về blogger:
Kẻ mà ai cũng biết là ai đấy nhưng không thèm chấp... - Giáo sư Xoay, MC của chương trình "Hỏi xoáy đáp xoay".