Đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc qua mắt họa sĩ Lê Đại Chúc.
- "Giữa hai bờ sương khói", một vở kịch được viết nhanh, dựng vội nhưng dư âm của nó lại lan rộng và lan xa sau khi gây hứng thú cho khán giả. Điều gì đã đem lại sự thành công này?- Đúng là vở kịch này được gọi đi tham dự hội diễn một cách bất ngờ, gấp gáp song ý tưởng của vở về ranh giới mong manh giữa sương và khói lại là tính chất của cuộc đời tôi. Cả hai vật thể mong manh này không tồn tại cố định để người ta có thể phân chia rạch ròi mà nó luôn di động. Sau khi vở Giữa hai bờ sương khói ra mắt tại Hội diễn toàn quốc 2004, có khán giả đã lên sân khấu ôm diễn viên: "Cám ơn miền Nam". Tôi thật sự ấm áp về điều đó.
- Chị muốn nói điều gì ở vở cải lương "Sắc xuân gửi lại" khi giới thiệu một quân vương với ba người tình?
- Đây là vở viết nhằm giữ cho chương trình Thắp sáng niềm tin được thắp sáng liên tục, sau khi vở Cung đàn nào cho em được công diễn. 15 gương mặt huy chương vàng Trần Hữu Trang khắp các tỉnh đã bỏ sô tụ về, chịu lĩnh lương rất thấp để được làm nghệ thuật đúng nghĩa. Nhân vật quân vương Cổ Trúc đã yêu cả ba người phụ nữ: Tuyết Mai, Hạ Lan, Thủy Cúc, nhưng vì không tìm thấy một tình yêu đúng nghĩa nên cuối cùng đã chết dưới tay người tình. Nếu chỉ có cái đẹp bề ngoài không thôi thì sẽ không thể hòa hợp với nhau. Trong việc hoàn thiện nhân cách để lãnh thêm những trọng trách lớn, bên cạnh cái tâm, cái trí, còn có cái dũng. Và cái dũng nếu quá lên một chút sẽ chuyển thành cái ác.
- Được gọi là người giữ lửa cho cải lương, chị có thể nói điều gì về ngọn lửa ấy?
- Cải lương được sinh ra từ tâm huyết của những người theo Tây học xưa kia, muốn có một môn nghệ thuật sân khấu cho riêng VN như Năm Châu, Lê Hoài Nở, Trần Hữu Trang, Bảy Nhiêu... Cải lương lúc ấy hưng thịnh vì nó đáp ứng đúng nhu cầu người xem. Thời đại ngày nay tràn ngập các phương tiện giải trí hiện đại, cải lương vẫn rề rà, không chuyển mình kịp theo đúng với đặc tính của nó là luôn sửa đổi cho đẹp hơn nên không đáp ứng được theo quy luật cung cầu. Tôi nghĩ nên đưa các điệu lý vào giảng dạy ở bậc tiểu học giúp cho trẻ em VN thấy có nhu cầu gần gũi với âm nhạc dân tộc. Đầu tư cho cải lương trước hết phải đầu tư cho khán giả cải lương. Điều này cần được Nhà nước bao cấp. Nếu thả nổi thì sẽ phải nhận lấy cái giá của sự thả nổi.
- Là một cô giáo với trên 20 năm giảng dạy (biên kịch, đạo diễn, kỹ thuật biểu diễn, MC...) ở nhiều nơi, chị nghĩ gì về các sinh viên của mình?
- Tôi trôi dạt vào nghề đi dạy bởi ngày xưa là một học sinh cá biệt, làm cho một số thầy cô thú vị nhưng cũng không ít thầy cô phiền lòng. Năm lớp 12, tôi viết một vở kịch mang tên Giữa đá và cỏ, đề cập đến sự hoài nghi về tư cách của người thầy khiến tôi bị đề nghị đuổi học. Và thế là tôi quyết tâm làm cô giáo. Tôi thấy sinh viên VN ngày nay nhiều người quên sử dân tộc mà lỗi không phải do họ mà do phương pháp giảng dạy đã xóa đi cái nhìn khách quan về lịch sử. Ở các sinh viên nghệ thuật, nội lực sáng tạo nơi họ rất có tiềm năng song không được khơi dậy đúng mức. Đó là sự lãng phí lớn. Môi trường chung quanh đã làm lấp đi lý tưởng làm nghệ thuật cao đẹp của họ.
- Khoảng 10 năm trở lại đây, chị đã có rất nhiều chuyến đi nước ngoài để giới thiệu sân khấu VN. Điều gì khiến chị lo nghĩ nhất qua những chuyến đi này?
- Chuyến đi đầu tiên là vào năm 1993, tôi được mời tham dự Đại hội Phụ nữ viết kịch toàn thế giới ở Adelaide (Australia). Từ đó, tôi đã đi trên 10 nước: Anh, Pháp, Đức, Na Uy, Thụy Điển, Tanzania, Philippines, Canada, Mỹ... Tất cả đều đi theo lời mời và tôi đã giới thiệu với họ về sân khấu VN. Đi nhiều thì vất vả nhiều, nhất là gặp khó khăn về kinh tế nhưng cái khổ lớn nhất lại nằm ở... tinh thần. Bạn bè nói tôi sao đi nhiều vậy! Tôi nghĩ đi nhiều sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, có lợi cho sân khấu nước nhà.
- Nhiều người tự hỏi chị lấy đâu ra sức lực để làm hết chừng ấy việc. Chị trả lời sao?
- Khuyết điểm của tôi là không biết nói không trước những lời yêu cầu. Đó là thái độ không tử tế với chính mình vì sức đâu mà chạy đường trường mãi được. Có người cho tôi là người đàn bà không có tuổi tác nhưng thật ra trong tôi đang ẩn chứa khá nhiều bệnh. Cơ quan nội tạng đều có vấn đề, nhưng thường ôm một đống thuốc bên mình mà luôn quên uống, nhờ ham việc mà lướt qua. Tôi ở chung với mẹ và không phải lo nuôi dưỡng ai nên không bị bức bách về kinh tế. Nhiều lúc cũng cảm thấy mệt mỏi, chán nản nhưng tôi nghĩ điều quan trọng là mình còn sống. Còn hơn những bạn bè đã "chết" trong cuộc sống nghệ thuật hoặc "chết" trong cuộc sống thật. Còn sống đã là điều may mắn.
- Trong dự tính của chị sắp tới, sẽ có một đám cưới. Thông tin này thực hư thế nào?
- Tôi đang cùng nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh viết một kịch bản về lịch sử cận đại, tạm gọi là vở Khói sông Gianh để tưởng nhớ hương hồn những người đã chết oan ở hai bờ sông Gianh. Tôi lăn lộn với nghề được đến giờ này là nhờ nghiệp tổ và cuộc sống trần thế luôn đem lại cho bản thân mình sự bất ổn, song tôi luôn thấy mình chưa làm được gì đối với những người đã chết oan. Muốn nói giùm họ cũng thật khó, bởi biết mình nói đúng hay sai! Mà nói để cho người sống chứ không phải người chết nghe.
Một dự định khác nữa là nếu không có gì thay đổi, vào ngày 7/1/2005 tôi sẽ lên xe hoa với một kỹ sư điện ở xa quê. Ba mươi năm rồi anh chưa một lần về VN và sắp tới sẽ có mặt ở quê nhà trước hôn lễ hai ngày. Hoa Hạ đã xung phong làm đạo diễn cho đám cưới của chúng tôi. Có người hỏi tôi có yêu không, tôi trả lời rằng nếu không thì một người chưa một lần được mặc áo cưới như tôi sẽ không phải phí thời giờ. Tôi đang rất hạnh phúc vì có được người đàn ông của riêng mình và vừa được khán giả ở một nơi xa xôi như Móng Cái nhận ra và chìa nón, chìa áo xin chữ ký trong chuyến đi du lịch vừa qua mặc dù mình chẳng phải là ngôi sao. Thái độ trân trọng đó là nguồn động viên rất lớn đối với tôi, bù đắp cho những tổn thương mà mình đã từng gặp phải, giúp tôi thêm tin vào cuộc sống này.