Bộ trưởng Võ Hồng Phúc.
- Ông đánh giá thế nào về việc cấp phép cho dự án Rusalka?- Một điều cần khẳng định là quá trình hình thành dự án, việc cấp phép cho dự án hoàn toàn đúng như các văn bản, các quy định về cấp phép đầu tư. Do công ty ở Nga nên không thể tìm hiểu về tài chính, chỉ có khả năng điều tra về tư cách pháp nhân, cụ thể là có công ty hay không, địa chỉ ở đâu, đăng ký ở đâu...
Những văn bản của Bộ KHĐT trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị cho chuyển nhượng vốn ở dự án Rusalka là phù hợp các quy định của pháp luật, nằm trong khuôn khổ pháp luật, xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh nghèo như Trà Vinh.
- Vì sao trong giấy phép đầu tư ban đầu do Bộ KHĐT cấp, tại điều 7 quy định không cho phép Công ty Rusalka chuyển nhượng vốn trước khi hoàn thiện dự án?
- Hồi ấy (năm 2000) khi cấp giấy phép cho công ty này, chúng tôi cũng hơi nghi ngờ họ sẽ bán dự án nên mới đưa thêm điều khoản này vào.
- Năm 2003, Nguyễn Đức Chi đã có những dấu hiệu phạm tội khá rõ ràng. Tại cuộc họp Chính phủ ngày 22/4/2003, Phó thủ tướng Vũ Khoan đã nhắc đến việc này và không đồng ý cho chuyển nhượng vốn. Thế nhưng Bộ KHĐT sau đó lại có tiếp văn bản thứ hai đề nghị Thủ tướng cho chuyển nhượng vốn của dự án này, tại sao vậy?
- Không phải Chính phủ không đồng ý mà nói là khoan thực hiện phương án chuyển nhượng vốn. Nhưng ngay sau đó Trà Vinh có ý kiến, rồi Công ty Vietnam Partners LLC (đối tác Mỹ) có đề nghị. Và quan trọng là phương án chuyển nhượng này khác với phương án chuyển nhượng lần đầu.
Chuyển nhượng lần thứ nhất là chuyển cho CTLT Trà Vinh, lúc ấy mình sẽ phải lãnh đủ tất cả rủi ro. Nhưng lần này nếu chuyển là chuyển cho một đối tác nước ngoài đăng ký tại Mỹ, họ sẽ gánh tất cả những khoản nợ của Nguyễn Đức Chi, gồm cả nợ của Trà Vinh 2,4 triệu USD và hàng triệu USD khác nợ các nhà thầu VN.
- Có gì đảm bảo đối tác Mỹ sau này có đủ năng lực tài chính để thực hiện dự án và không xảy ra chuyện lừa đảo?
- Trong phương án chuyển giao của Bộ KHĐT có ghi một câu: trước
một dự án của Nguyễn Đức Chi. |
- Ở thời điểm đó, Bộ KHĐT có biết Nguyễn Đức Chi và các công ty của ông ta ở Nga là “có vấn đề”?
- Thời điểm tháng ba thì chưa biết, nhưng sau khi đọc văn bản ngày 22/4 (ý kiến của Bộ Công an tại cuộc họp Chính phủ) thì mới biết những thông tin này. Cho nên trong văn bản của Bộ KHĐT trình Thủ tướng cũng nói trong trường hợp ông Chi bị truy tố thì phải xử lý như thế nào đối với Công ty Rusalka.
- Bộ KHĐT từng gửi văn bản đề nghị Bộ Công an giúp xác minh về ba công ty liên quan tới Nguyễn Đức Chi ở nước ngoài?
- Chúng tôi không có văn bản đề nghị xác minh, vì theo các báo cáo của tỉnh (Khánh Hòa) thì dự án vẫn triển khai bình thường.
- Khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào VN, chúng ta kiểm tra khả năng tài chính của họ như thế nào?
- Có cái kiểm tra được, cũng có cái không. Nhưng nói chung số sai sót ít thôi. Rút kinh nghiệm, từ 1/1/2003, Bộ KHĐT đã ra một chế tài để hạn chế những doanh nghiệp không có vốn đầu tư bằng cách đưa thêm các điều kiện vào giấy phép đầu tư.
- Nhưng đây không phải là trường hợp đầu tiên. UBND các địa phương, nhiều doanh nghiệp cũng đã bị lừa kiểu này...
- Cũng có một số dự án bị lừa, chẳng hạn như vụ một đối tác Mỹ ở Nghệ An, hay một vụ khác ở Hải Phòng... Nhưng cũng có trường hợp doanh nghiệp có khả năng tài chính, nhưng trong một thời điểm nào đó họ khó khăn về tài chính nên không đầu tư hoặc đầu tư rất kéo dài.
Đối với một số trường hợp thấy nghi vấn có thể sẽ nhờ Interpol, nhưng còn với những nhà đầu tư bình thường mà nhờ đến Interpol, e sẽ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của VN. Tôi cũng biết là đưa ra các điều kiện hậu kiểm sẽ tốt hơn những điều kiện tiền kiểm, chẳng hạn hai năm sau khi cấp giấy phép mà không đầu tư thì rút giấy phép, đó là cách tốt nhất.
Ở đây cũng có một điều cần rút kinh nghiệm, đó là thông tin giữa các cơ quan liên quan không được trao đổi. Chẳng hạn thông tin về những trường hợp có dấu hiệu phạm tội chỉ công an biết, trong khi công an không thông báo rộng cho cơ quan hữu quan khác. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau còn thiếu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp VN ra làm ăn cũng cần tỉnh táo xem xét đối tác nước ngoài của mình. Chẳng hạn Công ty Lâm Viên, Công ty Lương thực Trà Vinh tự mình kiểm tra đối tác nước ngoài. Khi anh bỏ tiền vào đâu, anh phải biết đối tác là ai, khả năng tài chính thế nào, còn Nhà nước làm sao kiểm tra.