nhat sy bao thu
Từ một chàng trai 18 tuổi, tháng 8 năm 1945 ra đi giải phóng quê hương, cho đến mùa thu 1961, tớ mới biết nếm mùi gia đình nó thế nào. Đơn giản là có một cái phòng hình thang 24 mét vuông, nơi đó, tớ lần đầu được sống với vợ và ba đứa con sau 15 năm sống trong quân ngũ.
Tập hợp được tiểu gia đình của tớ lại là cả một kỳ công mà tớ có thể viết ra thành một cuốn tiểu thuyết dày cả 500 trang! Đủ cả hỉ, nộ, ái, ố, hoan, lạc, đầy những tình tiết bi, hùng, hài hước và tất nhiên không thiếu những màn éo le, gay cấn, hồi hộp. Những hành động dũng cảm, mưu mẹo và đôi khi cũng có cả lừa đảo mới vượt qua được những hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" của cái gia đình không may của tớ!
Chỉ xin nhắc các bạn nào chưa đọc những entries trước của tớ là: Tớ là một anh chàng... tự tảo hôn quá sớm (1949) nên rơi trúng vào làm rể một gia đình bị "quy oan" là địa chủ. Cho nên, con tớ, do nhờ ông bà ngoại nuôi, cũng trở thành "địa chủ con" luôn! Vậy mà tớ đã kéo chúng ra khỏi cái vòng vây nghiệt ngã ở đất Nghệ An để trở thành công dân thủ đô Hà Nội, hoàn toàn chỉ nhờ vào chức... nhạc sĩ thôi!
Đến cửa nào tớ cũng có sẵn một đĩa 45 tua Tiếng hát biên thùy chìa ra ký tặng với lời (nói dối) phân trần: "Tôi quanh năm ở biên giới, hải đảo, không sao có thời gian về quê làm khai sinh cho các cháu!". Vậy là... ô kê! Xong ngay! Ngay cả cái bazar (cửa hàng tạp hóa) Bình Minh méo mó ở góc đường Trần Quốc Toản, phố Huế cũng được giải quyết với câu phê của ông Lê Minh Sơn: "Chiếu cố hoàn cảnh gia đình ly tán và công việc sáng tạo của anh... nên..."
Và lần đầu tiên trong đời, tớ được nếm mùi không khí gia đình như vậy đó! Thì ra hạnh phúc với tớ lúc ấy chỉ là... 24 mét vuông nhà được cấp! Hạnh phúc thêm tí nữa là... mua được một... cái giường cho bốn người nằm (rất hiếm, trừ những người có đăng ký kết hôn). Lại thêm một chút hạnh phúc nữa là mượn được cơ quan cái bàn và một cái giường cá nhân dành cho ông con lớn, đã 7 tuổi nhưng vẫn hay tè dầm.
Còn cái hạnh phúc sum họp gia đình xung quanh một bữa ăn thì vẫn chưa tới vì gần hai năm trời, cả gia đình tớ xách bát đũa ăn cơm tập thể ở nhà ăn Bộ Văn Hóa tức rạp Ái Liên cũ, cách nhà không đầy 30 mét! Ôi, cái mẩu hạnh phúc cỏn con tầm thường mà hôm nay, "cho không" cũng chẳng mấy ai thèm nhận ấy, đối với tớ lúc đó nó thật như một giấc "mơ tiên", mà bây giờ mỗi lần nghĩ lại thấy càng... rùng mình!
Tuy nhiên, như một entry trước, tớ quyết ra tay phen này để giải cứu cả gia đình và... "cho bọn mất dạy định hại tớ biết tay" bằng chính thực lực của mình. Kết quả như thế nào, tớ đã nói và post lên vài tấm ảnh. Tớ không những không chết mà còn sống, sống hơn bọn cơ hội cả trăm, nghìn lần. Tớ trang bị cho tớ những gì tốt nhất, mua piano, mua xe đạp, (làm gì có xe máy, có ô tô, có nhà mà mua). Tớ còn thỉnh thoảng kéo cả gia đình vào khách sạn Rex, số 1 Bà Triệu dành cho khách quốc tế (có thẻ riêng dành cho một số văn nghệ sĩ).
Phải nói thật là tớ đã cố tình "chơi trội" để trả lời cái bọn cơ hội là: "Tao đang được tự do đây!, Tao đang hạnh phúc đây!" chứ ăn uống ở nơi này đâu có ngon bằng chim quay Tiểu Lạc Viên Tạ Hiền hoặc bún Lờ ngõ Tạm Thương!
Những tưởng cuộc sống cứ thế mà tiến lên, tiến đều, tiến mãi, ai ngờ cuộc chiến thứ hai lại nổ ra, ác liệt hơn, dài ngày hơn và chết chóc hơn! Cuộc chiến chống Mỹ! Cụ Hồ đã ra hịch: "Này Giôn Xơn! Dù Hà Nội, Hải Phòng, dù phải đánh 15 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa..." Vậy là, mọi kế hoạch riêng tư, mọi vun vén gia đình, tất cả đành xếp lại!
Lên đường chống Mỹ! Ba đứa con tớ phải... lên đường trước tiên! May mà hai đứa nhỏ nhất được ở một nơi (trại trẻ của Vụ Nghệ Thuật nơi nuôi dưỡng con cái nghệ sĩ), vợ một nơi, thằng lớn theo trường ở một nơi. Còn tớ thì thề chết sống với thủ đô nên... chẳng đi đâu cả vì tớ vững tin là Hà Nội không thể trở thành bình địa được!
Đi sơ tán chẳng qua chỉ là một đòn chính trị để chứng tỏ cho "thằng Giôn Xơn" biết "tao quyết hy sinh chiến đấu đến cùng" đây mà thôi! Sức mấy mà dám thả bom vào gần trăm cái sứ quán nước ngoài đang vẫn hàng đêm sáng đèn, nhảy đầm tắc xình xình, chỉ cách nhà tớ chưa đầy 100 mét!
Vả lại tớ còn phải làm nhiệm vụ "con thoi", tiếp tế cho vợ, cho con ở ba địa điểm khác nhau. Trung bình mỗi tuần cái xe Spouních của tớ phải đi 300 cây số, vượt sông Hồng bằng phà ở bến Phà Đen (những ngày cầu Gia Lâm bị đánh gãy). Tối um, hồi hộp, đứng tim khi nghe tiếng còi báo động cất lên để... tặc lưỡi, mặc kệ số phận, chứ biết làm gì? Chả là, tuần nào tớ cũng có nhiệm vụ tải đồ tiếp tế cho ba nơi. Đủ thứ gạo, dầu, thậm chí cả mấy cái bóng đèn hột vịt cho con để đêm đêm có cái học tập, làm bài!
Đâu nào có thiếu dũng cảm như mấy anh lái xe trên đường vô tuyến lửa khu IV? Phải chăng vì cái "hy sinh, anh dũng" này ít được nói đến chỉ vì nó nhằm mục đích "không cao cả", hy sinh liều chết chỉ vì... gia đình? Riêng các nhà hát, trường nhạc chạy tuốt lên tận Bắc Giang, piano đặt trong hầm, tập tành không dám vì dân sợ không nghe được tiếng máy bay. Nhất là mấy ông contre basse, cello, tuba... cứ cất tiếng lên là bà con chạy tóe loe, tưởng thần Sấm, con ma đã tới! Tóm lại Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác tuy chưa tan nhưng các nhà hát, các cơ sở văn hóa thì tan... tác!
Riêng cơ quan tớ, chỉ vì xin lên, xin xuống một cái xe chở đĩa hát mới in ở Tiệp về không xong mà mất tiêu cả một toa tầu toàn đĩa hát bạn mới "in cho" đang còn tắc ở ga Giáp Bát! Cái cảnh gia đình tan tác, mỗi người mỗi nơi kéo dài cho đến hết năm học 1972 - 1973, nghĩa là con tớ từ mẫu giáo đã học xong cấp hai toàn ở nơi sơ tán, nghĩa là biết viết trên đầu gối (Do làm gì có ghế, có bàn nên chữ học sinh sơ tán xấu hơn gà bới!)
Còn thằng lớn thì đã đỗ tú tài (hệ thống 3 cấp 10 năm nên không được gọi là cậu tú). Khiếp không cái bước chân vô cảm của thời gian? Lão Kissinger tuyên bố "push the North Viêt Nam to the stone age" (đưa miền bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá) có thể hôm nay không còn nhớ là mình nói gì nhưng tớ thì... tớ nhớ. Vì tớ thấy cái cuộc chiến này, tuy không đẩy cả dân tộc về thời kỳ đồ đá đúng với ý đồ của ông ta nhưng (chắc ông ta không tính đến đâu) nó đã vô tình (hay bắt buộc) đẩy không ít dân miền Bắc vào con đường phải có những trái tim... đá thật!
Và đó cũng là nỗi đau nhất của những ai, cùng tớ, vẫn giữ nguyên được nhịp đập của trái tim người! Tớ thật sững sờ khi tới thăm con bé út nhà tớ ở nhà trẻ nơi sơ tán. Mới 6 tuổi đầu mà nó đã dám... cắt cổ một con gà do cô bảo mẫu giữ chặt hai chân và hai cánh! Tất cả những đứa bé xa cha mẹ đều tự túc với mọi "khả năng tiềm tàng" để tồn tại và biết làm mọi công việc mà giá như ở nhà với cha mẹ, không phải đi sơ tán 7, 8 năm trời, chúng không bao giờ phải làm.
Không một đứa nào đòi về theo cha mẹ khi có dịp cha mẹ đến thăm vì chúng thừa biết có đòi cũng không được! Không có sự chăm chút của cha mẹ, đối với chúng dần dần trở thành điều tất nhiên! Rung động, khóc lóc trước những mất mát, những cuộc chia ly đối với chúng gần như quá nhàm chán. Tớ càng bị ảnh hưởng mãi với cái việc "đá hóa trái tim" này khi có nhiều dịp đi về các vùng nông thôn miền Bắc.
Ở đấy không còn mấy đàn ông. Nhà nào cũng có người hy sinh nơi mặt trận (miền Nam là chính), nhà nào cũng có treo 1, 2, thậm chí 3 bằng Tổ Quốc Ghi Công. Vậy mà, tớ nghe thấy toàn... tiếng cười. Đau hơn là những tiếng cười của một đám phụ nữ khăn trắng trên đầu, đang truyền tay nhau vật liệu, (ngồi tít trên mái nhà), lợp lại cái mái tranh đã cũ nát! Còn ở dưới sân, cũng toàn phụ nữ, đang thui một chú chó vàng, chuẩn bị liên hoan, cũng cười vui như nắc nẻ!
Chuyện này, cánh tớ đã thực mục sở thị ở làng Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Đông, nơi có bà chủ tịch tên là chị Mười, ngoài ba mươi, khá xinh đẹp nhưng vẫn chưa làm sao có nổi một tấm chồng! Phải chăng có quá nhiều lần truy điệu chồng con, có quá nhiều nước mắt đổ ra nên trái tim phụ nữ đã thành... đá?
Tớ càng đau hơn khi hỏi bà mẹ Soan ở cũng cái thôn có cái tên lạ lùng mà rất hợp cảnh, hợp người là... Đông Lỗ ấy rằng: "Mẹ có tin gì về con trai mẹ lên đường đánh Mỹ không?" Có biết bà đã trả lời thế nào không? - "Ôi dào, nó đã đi Bê thì còn mong gì nữa mà mong! Cả cái thôn này,có ai về đâu!"
Thế đấy, con người chấp nhận cái chết như một định mệnh không thể cưỡng lại. Cho nên, buồn, khóc hình như tớ gặp rất ít, mà ở đâu tớ cũng chỉ thấy tiếng cười... "lạc quan"! Điều này tớ càng ghê rợn khi có dịp đi vào đường 559 - đường Trường Sơn. Triết lý sống của những con người trên con đường này là: "Đánh chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã chết, chết chưa chắc đã mất xác!" Và thật là như thế!
Biết làm gì khi nhiệm vụ được giao là phải cắm chốt tại chỗ (đã có tọa độ ghi trên bản đồ của không lục Hoa Kỳ), chịu đựng mỗi ngày 9 đợt bom B52 rải thảm! Hết đợt bom là chui ngay ra khỏi hầm hộ tống, sửa lại đường cấp tốc cho xe qua. Tớ mà cứ phải nằm ở cái cua chữ A đó vài ngày thì tớ cũng trở thành... anh hùng là cái chắc! Sức mấy mà bỏ chạy, mà... bê quay!
Cái Tiểu Đoàn 2 công binh trên Binh Trạm 12 đó hỏi còn làm sao rung động nổi với cái chết khi cái chết đối với họ chỉ là... trò đùa! Tớ càng đau khi thấy lúc đi thì còn mẹ Suốt, còn 10 cô gái Đồng Lộc, lúc về thì... tất cả đã hy sinh. Biết được tin này, chẳng ai trong bọn tớ nhỏ được một giọt nước mắt và càng không một ai sau này trở về, viết một dòng nào về họ!
Thì ra những "kỹ sư của tâm hồn" cũng đã bị "đá hóa" trái tim đến mức không thể rung động trước những cái chết mà mình đã biết trước cả này! (Vậy mà vừa qua, Hội Âm Nhạc TP HCM tổ chức cho các nhạc sĩ đi tham quan... tượng đài 10 cô gái Đồng Lộc chết đã hơn 30 năm. Chỉ nghe kể chuyện thôi mà có một nữ nhạc sĩ, sau một tuần đã rung động tới độ... "cho ra" một lúc tới... 10 ca khúc!) Làm gì mà bọn tớ chả phải... bỏ nghề! Phải chăng vì chúng tớ đã gặp gỡ, đã vui đùa với hàng trăm cô gái Đồng Lộc khác trên đường Trường Sơn, những cô gái tuổi mới chỉ 18, 20 mà đã mất hẳn... kinh nguyệt, mà đầu vú đều teo tóp (hiện tượng này đã được nêu trên báo chí), da dẻ xám xịt, tóc rụng gần hết... trên các ngầm Cà Ròn, Ta Lê...
Và đau hơn nữa các bạn ơi! Những con người vừa nói chuyện tếu táo với chúng tớ đó, vừa cấu nát cánh tay của nhạc sĩ H.Đ, vừa thú thực với tớ và nhạc sĩ V.D là "bọn em sẽ ở đây cho... đến chết; chứ về quê, ai thèm lấy con gái Trường Sơn, khỉ chẳng ra khỉ, người chẳng ra người!" thì.... hai hôm sau, khi trở lại, tất cả đã "bốc hơi", không một dấu vết sau mấy đợt bom B52!
Tội nghiệp, chỗ họ không có điều kiện đào hầm hộ tống như ở tiểu đoàn 2 công binh nên còn lại chỉ là mấy "nấm mồ tượng trưng" với những cái tên ghi nguệch ngoạc trên một miếng gỗ tháo từ thùng lương khô Trung Quốc! Thú thực với các bạn rằng: chính cái cuộc "đi thực tế" phũ phàng này đã làm tớ phải suy nghĩ nhiều đêm dài và tự dưng thấy dị ứng với mọi sáng tác ca ngợi người đã chết, dù là cái chết đẹp đẽ, anh hùng biết mấy đi nữa!
Nhất là khi viết về những cái chết có tên, có tuổi, có địa danh thì tớ luôn có phản xạ tức thì trong tâm hồn: "Làm sao những nam, nữ anh hùng vô danh mà tớ đã gặp kia chỉ một đêm "bốc hơi" tất cả trên các ngầm, các khe lại... thiệt thòi quá vậy? Làm sao họ có thể bị quên lãng nhanh chóng và lạnh lùng đến thế?
Thế rồi, từ "làm sao", chuyển thành "thế nào", chuyển thành "vì sao" nó cứ luẩn quẩn trong đầu, làm tớ mất dần cái "phương hướng sáng tác" để rồi tự... tịt ngòi luôn cho đến ngày 30/4/75 (mà tớ sẽ kể ở các entries sau). Tóm lại, với cuộc chiến thứ hai này, có lẽ, có lúc, lịch sử sẽ phải phán xét... lại, sẽ phải tổng kết... lại về sự tổn thất, hy sinh ghê gớm của dân mình.
Nhưng dù con số mất mát có to lớn đến đâu, thì mọi sự đã qua rồi! Riêng cái nỗi đau "đá hóa của trái tim con người" thì theo tớ, nó còn ở lại, dai dẳng trong mọi con người, di hại đến cả vài ba thế hệ... sống trơ trơ giữa những đau khổ của đồng loại, sống không cần tình thương yêu, sống liều mạng, sống không có ngày mai... Thủ phạm của mọi sự đá hóa này chính là chiến tranh.
Mọi cuộc chiến tranh theo tớ, dù chính (hay tà) cũng chỉ là theo ý đồ của các nhà chính trị! Còn đối với cả tỷ, tỷ dân trên trái đất này thì chiến tranh chỉ có nghĩa là mất mát, là tang tóc, là máu chảy, xương rơi, là đầu óc, gan ruột, tim phổi, phèo... nát bấy dưới mưa bom bão đạn, là vợ mất chồng, cha mất con, là cửa nát, nhà tan...
Còn đối với văn hóa thì chiến tranh đồng nghĩa với hủy diệt. Không thể có một cái "chân thiện mỹ" nào tồn tại trong các tác phẩm ca ngợi sự đâm chém, bắn giết dù đâm chém một con lừa hay một con bò cả! Và nguy hại hơn nữa là khi con người đã chai lì với những cuộc chém giết, khi tâm hồn và trái tim đã hóa đá đến mức "phun" ra những thứ triết lý chiến tranh kiểu: "Còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân" hoặc "Đi đánh Mỹ vui như là đi trảy hội", hoặc lãng mạn hoá chiến tranh kiểu "Đường Trường Sơn ta qua mà vẫn đầy đủ "nai vàng ngơ ngác để rồi ngắt một đóa hoa rừng mà cài lên mũ ta đi!"... Văn nghệ kiểu này, sau khi đi Trường Sơn về, tớ thấy là... tội ác, là đánh lừa người không biết mùi chiến trận, là cười cợt trên cái chết của hàng trăm, hàng nghìn người mỗi ngày, là ru ngủ một cách vụng về, thậm chí ác độc trước những nỗi đau của các bà mẹ, của những người vợ đang khăn tang trắng làng tớ, làng anh, làng bạn, làng chúng ta, từ Nam ra Bắc!
Chiến tranh! Con quỷ phá hoại "thủ đoạn chính trị cuối cùng" trên bàn cờ chính trị của các nhà chính khách mong sao không bao giờ trở lại trên mảnh đất không may mắn này nữa.
Vì chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc của mọi con người, trong đó có "mẩu hạnh phúc cỏn con" của gia đình tớ. Một loại hầm đào sâu và nhiều ngóc ngách vào ta-luy dương, (phía vách núi), bom B52 cũng chỉ làm người ẩn trốn trong đó hơi bị rung rinh thân mình chút ít.
Vài nét về blogger:
Được xem là blogger lớn tuổi nhất cộng đồng blog Việt, Nhat sy bao thu (nhạc sĩ Tô Hải) năm nay đã 82 tuổi. Blog của ông mở hàng bằng câu: "Ngoài 80, có mấy ai lên blog. Tớ 81 thành chủ blog... dở hơi". Blogger này có rất nhiều entry toàn bằng lời rap. Ông nhắn nhủ: "Tớ quyết định phen này làm blôc - gơ. Mong giúp đỡ lớp trẻ bằng lý thuyết, bằng thực hành, bằng kinh nghiệm cuộc đời".
Tên khai sinh của ông là Tô Đình Hải, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1927 tại Hà Nội, quê ở Thái Bình, hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhạc sĩ Tô Hải học nhạc lý và tham gia Ban đồng ca Saint - Joseph từ nhỏ. Từng đoạt giải thưởng âm nhạc "Chim sơn ca" tại Rallye Kiến An của Hướng đạo sinh toàn Đông dương.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Vệ quốc đoàn và sáng tác nhiều ca khúc, hành khúc như Trường Lục quân đang cần lính đánh Tây, Tiếng kèn báo động. Chúng ta không muốn đói. Toàn dân kháng chiến trường kỳ, Thầy tu giết giặc. Chiến sĩ Khu Ba, Tiếng kèn cứu nước… Bên cạnh những ca khúc, hành khúc chính luận ấy, Tô Hải cũng như nhiều nhạc sĩ chống Pháp đã có những tình khúc trong chiến tranh khá nổi tiếng như: Nụ cười sơn cước, Đứt dây dàn, Tình giây lát…
Sau thống nhất đất nước, ông tiếp tục viết nhạc cho kịch, phim và nhiều tác phẩm khí nhạc như: Buồn vui và khát vọng, Concerto cho đàn bầu và dàn nhạc giao hưởng. Ngoài ra ông còn viết nhiều tiểu luận, bài báo về âm nhạc. Ông đoạt nhiều giải thưởng sáng tác và gần đây nhất là Giải thưởng Khí nhạc Ngẫu hứng cho cello và giao hưởng (Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996).