- Chào các cô gái xinh đẹp! - ông ta nói. Ông đứng cạnh cửa xe bên phải. Cô gái lái xe nói với ông:
- Bố ơi, đây là Julie Rand. Đây là bố mình.
- Chào cô - ông nói với cô gái lạ mặt, rồi với cô ngồi giữa - Chào Frances.
- Chào Liggett yêu quý - Frances nói.
- Bar đâu? - ông nói.
- Nó lái xe đưa mẹ đến câu lạc bộ. Chúng ta sẽ đến đấy ăn trưa. Bố lên xe đi kẻo muộn mất.
- Không muộn đâu. Mẹ biết bố đi chuyến tàu này.
- Đằng nào chúng ta cũng muộn. - Ruth Liggett nói - Luôn luôn muộn. Y như quý ông Jimmy Walker vậy.
- Ô hô hô - cô Rand cười phá.
- Cửa kia đóng chưa, bố? - Ruth nói.
- Bố nghĩ là rồi. Rồi - ông nói.
- Nó vẫn lách cách. Chúng ta nên xoay chuyển việc này trong lúc có thể vớ bẫm gì đó.
- A haha. Chúng ta sẽ xoay chuyển và bán nhà. Thế có hợp ý con không? - ông nói.
- Ồ. Lúc nào cũng nói đến chuyện chúng ta khánh kiệt ra sao. Mà lại ngay trước mặt người lạ.
- Ai là người lạ? À, cô Rand. Cô ấy không hẳn là người lạ kia mà? Cô có phải là con gái ông Henry Rand không?
- Không, cháu là cháu ông ấy. Bố cháu là David Rand. Song cháu đang đến thăm bác Henry và bác gái Bess.
- Ờ, vậy cháu không phải là người lạ rồi. Cháu thích chiếc ôtô này không?
- Không gọi là ôtô, bố ơi - Ruth nói.
- Cháu rất thích - cô Rand nói - Cháu thấy nó rất đẹp.
- Chà, nói lảng cừ ghê! Cô ấy không thích đâu. Cô ấy không muốn đi xe này. Bố nên nhìn thấy Rand lúc đó. Ra khỏi nhà, cô ấy chỉ nhìn một cái và nói: "Đây là thứ bọn mình sắp đi ư?" Đúng không nào? Thú nhận đi".
- Ờ, trước kia mình chưa bao giờ đi xe tải.
- Xe tải! - Ruth nói.
- Ở chỗ cháu không có loại xe vừa chở khách vừa chở hàng sao?
- Không. Bọn cháu chỉ đi các loại ôtô thông thường.
- Cô ấy từ... nơi ấy tên là gì nhỉ, Randy?
- Wilkes-Barre, Pennsylvania.
- Một thành phố rất đẹp - Liggett nói. - Tôi nhớ rất rõ. Ở gần Scranton. Tôi có những người bạn rất thân ở Scranton.
- Bác có quen ai ở Wilkes-Barre không? - cô Rand hỏi.
- Tôi cho là không, kìa... Ruth!
- Lẽ ra hắn ta phải đi đúng đường của mình chứ.
- Con đừng viện cớ thế. Bố nhắc con đừng liều khi có nhiều người khác trong xe.
- Ôi chào, hắn không đâm được con đâu.
- Đấy không phải việc con nghĩ. Chả trách chiếc xe này móp méo hết cả.
- Bố đừng đổ tại con. Con không lái nó nhiều đến thế đâu.
- Phải, bố công nhận con không phải chịu trách nhiệm về chiếc xe này, nhưng chiếc Chrysler thì có đấy. Khớp ly hợp không khỏe vì con chạy suốt. Chắn bùn thì cong queo.
- Có người đã làm cong một cái. Cái đằng sau bên trái ấy. Việc này xảy ra khi ai đó lái xe chứ không phải con.
- Thôi, không nói đến chuyện đó nữa.
- Lẽ tất nhiên là không. Con đúng. Chính vì thế chúng ta mới không nói nữa.
- Thế có công bằng không? Bố đổi đề tài khi bố sai ư, Ruth?
- Không, bố yêu quý. Như thế không công bằng - cô giơ bàn tay ra phía sau. Ông hôn tay cô.
- Sao thế, bố!
Những người khác không nhìn thấy.
- Suỵt - ông nói rồi im lặng cho đến lúc tới câu lạc bộ - Đây rồi. Bố đi rửa mặt đã. Ba phút nữa gặp lại nhé.
Trong phòng thay đồ, ông bấm chuông gọi người phục vụ và dàn xếp đổi hai cái séc lấy tiền mặt. Câu lạc bộ quy định mỗi ngày chỉ được đổi không quá một séc 25 đôla ra tiền mặt, nhưng ông ghi hai ngày và người phục vụ, trước kia đã làm việc này nhiều lần, đổi cho ông năm chục đô. 60 đôla để lại cho Gloria và các khoản khác chi cho cô làm ông chỉ còn lại ít tiền, và ông biết Emily sẽ thấy lạ khi ông tiêu nhiều thế trong có một đêm.
Ông gọi một cốc vại whisky pha sôđa và uống, thầm hỏi vì sao lại cảm thấy mềm lòng như thế với Emily, trong khi biết chắc mình chẳng sẵn sàng gặp bà chút nào. Lúc này ông càng chẳng muốn gặp bà. Ông phân vân vì đã hôn tay Ruth. Đã lâu rồi ông không hôn tay con, và chưa bao giờ ông làm nhiệt tình và tự nhiên đến thế. Trước kia, đây là một phần trò ông hay chơi với Ruth; cô đóng vai một cô gái được ve vãn, còn ông là một anh chàng nhà quê. Ông gặp cả nhóm trong quán thịt nướng.
Ông đến thẳng chỗ Emily và hôn lên má bà.
- Chà, có người cầm một cốc vại kìa - bà nói.
- Người đó cần một cốc vại - ông đáp - Người đó thấy nôn nao và rất cần uống một cốc. Mọi người uống gì nào? Cocktail nhé?
- Không, cảm ơn - Emily nói - Em nghĩ bọn con gái không nên uống gì nếu chúng muốn chơi tennis. Chúng ta gọi món nhé?
- Thịt nướng - Ruth nói - Cậu thế nào, Randy? Thịt nướng nhé?
- Ừ.
- Tất cả chúng con đều muốn ăn thịt nướng. - Ruth nói. - Em cũng thích, phải không Frannie?
- Em thì không - Barbara, con gái út nhà Liggett nói - Chẳng đỏng đảnh gì đâu nhưng thịt nướng đúng là món em không muốn ăn. Julie, nếu chị không thích thì cứ nói. Chị cũng thế, Frannie. Mẹ có thích thịt nướng không?
- Không con ạ, mẹ thích sườn hơn. Liệu có phải đợi lâu không, Harry?
- Khoảng mươi phút, thưa bà Liggett. Các vị có thể dùng món súp khai vị, ăn hết súp sẽ có món sườn.
- Bố ăn thịt nướng nhé? - Ruth nói.
- Ừ. Cho bố cocktail cà chua trước, được không Ruth?
- Được chứ ạ. Vậy quyết định thế nào đây? Mấy suất sườn nào? Mẹ ăn sườn. Barbara, sườn. Randy, sườn. Bố, thịt nướng. Frannie, thịt nướng và con, thịt nướng. Anh nhớ chưa, Harry?
- Rồi, thưa cô Liggett. Còn món rau?
- Mang nhiều rau. - Ruth nói.
Suốt lúc Ruth chọn món, Liggett quan sát con và nghĩ đến Emily. Emily - lúc này ông không nhớ ra - vẫn còn nguyên khuôn miệng, cái mũi, cấu trúc xương và trong chừng mực nào đó, nước da từng tạo nên vẻ đẹp của bà. Nhưng hiện giờ Emily không còn đẹp nữa. Những gì Emily giữ lại được chỉ làm người ta tự hỏi chuyện gì đã khiến bà chỉ còn là một phụ nữ xoàng xĩnh có nét ưa nhìn. Lẽ đương nhiên cặp mắt có ảnh hưởng nhất. Giờ đây trông chúng giống mắt một người bị nhiều cơn đau đầu, dù việc đó chẳng xảy ra lần nào. Emily là người hết sức khỏe khoắn.
Ông quan sát đôi bàn tay bận bịu của bà: hết mở khăn ăn, sờ sẫm mà không thay đổi vị trí bộ đồ ăn bằng bạc, rồi chắp hai tay lại. Bà có thói quen ngắm nghía đôi bàn tay khi sử dụng. Ông băn khoăn và lần đầu tiên chú ý đến điều đó. Ông không thể nhớ đã lần nào nhìn thấy bà ngắm đôi tay khi để yên chưa, chắc lúc ấy bà có ý thức là chúng vô dụng. Bà ngắm nghía như thể kiểm tra khả năng và sự khéo léo của chúng. Đó chỉ là một phần khác trong cách sống của bà. Cuộc đời bà cũng y như thế.
Bà thường ngồi nhà, tay cầm quyển thơ và nhìn ra cửa sổ, mắt mơ màng. Ông nhìn lại bà lần nữa, rồi lần nữa, tự hỏi những ý nghĩ hay ho gì bắt nguồn từ những dòng thơ kia. Đột nhiên, bà nói một câu đại loại như:
- Anh nghĩ xem tối thứ năm tới em có nên mời anh chị Hobsons không? Anh ưa chị ta phải không?
Liggett cho rằng có nhiều đức ông chồng giống như ông; ít nhất có hai hoặc ba người cùng trang lứa đã thổ lộ với ông rằng họ không hiểu vợ. Một vài người đã kết hôn chừng 20 năm. Họ khá chung thủy nếu không nói là hoàn toàn chung thủy, chu cấp cho vợ con đầy đủ, là người cha tốt, làm việc chăm chỉ, cư xử chừng mực. Khoảng một năm sau cuộc suy thoái, khi thấy đó không phải là một sự kiện nho nhỏ sắp qua nữa, những người đàn ông này bắt đầu ngẫm nghĩ đến những thứ cuộc đời đem lại cho họ hoặc họ đã nhận được. Thường thì đàn ông loại này tính toán: "Mình có vợ và hai đứa con..." rồi tiếp đến là các khoản "đầu tư" cho họ, tiền mặt, việc làm, nhà cửa, ôtô, du thuyền, ngựa, quần áo, đồ đạc, tài sản ủy thác, ống nhòm, quan hệ hội hè... Họ - những người đàn ông này - nhận ngay ra rằng, vào mùa xuân năm 1931, toàn bộ của nả sờ sờ chỉ còn một phần tư giá trị ban đầu, có khi còn ít hơn thế. Có nhiều trường hợp chẳng còn gì.
Khi nạn suy thoái đạt tới đỉnh điểm, những người đàn ông ấy phải thừa nhận một thực tế là những thứ có thể mua bán trước kia từng rất giá trị thì nay chẳng đáng giá gì. Ít nhất là nó thể hiện ra như thế. Một số ít người còn phân vân liệu những thứ họ từng mua có giá trị đúng như số tiền đã bỏ ra không. Chà! Cũng bõ công suy nghĩ, đáng mua những cuốn sách đắt tiền, dày cộp để tìm hiểu xem ra sao. Một số anh chàng thích đùa, nhanh nhạy trên sàn chứng khoán đêm đêm về nhà lục tìm xem John Stuart Mill (triết gia người Anh) viết gì, xem John Stuart Mill là thằng cha nào.
Trong số bạn bè của Liggett, có những người đàn ông bắt đầu kiểm kê "mình có một vợ và hai con", cùng bản danh sách những của cải vật chất dành cho họ, rồi trở lại mục đầu tiên: vợ. Lúc đó họ khám phá ra rằng, họ không thể chắc chắn là đã có vợ. Tỷ lệ "tử vong" các cuộc hôn nhân trong tầng lớp của Liggett gần đạt đến 100%, nhưng trước cuộc đại suy thoái chẳng có lý gì để phát hiện ra việc này; hầu hết đều tin rằng họ làm việc vì hạnh phúc của vợ con cũng như sự thăng tiến của mình, nhưng đàn bà nhàn rỗi thường lười biếng, dù ông chồng làm ăn buôn bán kiếm ra hàng triệu hay đang cố giữ những công việc chỉ mang lại bốn chục đôla mỗi tuần.
Năm 1930, bạn nhìn thấy những người đàn ông như Liggett trên phố Long Island và Westchester, đội mũ, mặc áo gió, đi giày thể thao, chủ nhật tản bộ với vợ, cố sức hiểu vợ vì tin rằng vợ là thứ họ có thể trông mong. Lẽ tất nhiên họ chẳng có chủ ý xúc phạm trong thái độ cư xử, và các bà vợ cũng chẳng nghĩ là bị xúc phạm nên mọi sự vẫn suôn sẻ. Vợ thì biết chồng hay đưa mình đi xem đá bóng, đến rạp hát; chồng thanh toán các hóa đơn cho vợ, mua quà Giáng sinh cho vợ, rộng rãi với những mối quan hệ xấu của vợ, không can thiệp vào việc giáo dục và nuôi dưỡng các con. Đôi khi, người vợ còn chẳng để ý vì sao chồng mình lại khác thường hơn, cố gần gũi hơn. Chị ta biết có một cuộc suy thoái; chị đã đọc trên báo về những người vợ can đảm kề vai sát cánh với chồng; chị đọc các bài thuyết giảng trên báo số ra thứ hai, trong đó các giáo sĩ dạy các con chiên (và đám đông, lúc nào cũng là đám đông) rằng cuộc suy thoái là một việc tốt đẹp vì nó đưa vợ và chồng xích lại gần nhau.
Liggett không phải là một người chồng như thế; Emily càng không phải là người vợ như thế. Trước hết, Liggett là dân Pittsburgh, còn Emily là dân Boston. Chỉ riêng điều ấy cũng đủ quan trọng lắm rồi. Nếu không cưới được Emily, Liggett sẽ chỉ là người để Emily rẻ rúng. Hình như suốt đời, Emily đã dồn nén sự khinh rẻ, và chắc phải giãi bày với một người thuộc tầng lớp thượng lưu Mỹ, vì không một người nước ngoài hoặc người Mỹ thuộc tầng lớp dưới có thể hiểu được rằng, bà cảm thấy mình có quyền được biểu lộ sự khinh miệt. Những thứ Emily có là tính thống trị của thực dân, là sự gắn bó trọn vẹn với những anh chàng Harvard siêng năng và những người đàn bà của họ. Lẽ tất nhiên Câu lạc bộ Winsor-Vincent kết nối trực tiếp bà với những người xuất thân cùng giới. Bà có quan hệ với một vài gia đình ở New York và họ thành một quần thể bất khả xâm phạm; họ không bao giờ lỗi thời. Liggett sửng sốt vì phải mất một thời gian dài sau khi cưới Emily, ông mới hiểu rằng bà chưa bao giờ ghé vào khách sạn nào ở New York. Bà giải thích lý do duy nhất để đến New York là thăm họ hàng, và bà ở nhà họ chứ không đến khách sạn. Ông đồng ý, và đúng là như thế, ông chẳng bao giờ kể với bà những chuyện nghịch ngợm từ thuở còn bé tại các khách sạn New York: lần ông thả một cuộn giấy vệ sinh xuống đại lộ Năm, lần ông men theo gờ cửa sổ này đến cửa sổ khác. Ông cảm thấy sờ sợ bà.
Còn tiếp...
(Trích Áo khoác lông chồn, tác giả John O'Hara, Nxb Văn Hoá Sài Gòn ấn hành)