Ban đầu, Nguyễn Văn Thịnh cũng tìm đủ mọi cách để gian dối, chối tội và phương pháp mà y sử dụng là "đổ" hết lên đầu một đối tượng người nước ngoài mới quen và… không rõ địa chỉ.
Thịnh khai, từ việc buôn bán hàng điện máy, xe máy có quen một người đàn ông tên là A Giang ở tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Khoảng trung tuần tháng 9/2004, người bạn này nhờ Thịnh đứng ra nhập khẩu ủy thác cho một container hàng cá rô biển khô từ Tanzania về Việt Nam với số tiền công là 2.000 USD, thanh toán sau khi thanh lý hợp đồng.
Sau khi lô hàng này về đến cảng Hải Phòng khu vực 3 (cảng Chùa Vẽ), đích thân Thịnh đã đến đây làm thủ tục hải quan để nhận hàng và sau đó thuê xe chở về gửi nhờ tại công trường xây dựng nằm trong khuôn viên của Công ty TNHH Đô Thành, thuộc khu công nghiệp Phú Thị, Gia Lâm (Hà Nội).
Chiều 7/3, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã chính thức phê chuẩn lệnh tạm giam 4 tháng nhằm tiếp tục điều tra đối với đối tượng Nguyễn Văn Thịnh. Ngày 8/3, một tổ công tác của Phòng 6, Cục CSĐT tội phạm về TTXH (Bộ Công an) đã đến Trại T16 Bộ Công an để tống đạt lệnh tạm giam này.
Thịnh cũng khai rằng, A Giang thông báo với Thịnh là muốn dỡ hàng ra nên Thịnh đã cho người đi mua bao tải và sau đó cùng A Giang đến hiện trường nơi đặt container lúc tháo dỡ. Số hàng này sau đó được vận chuyển về trụ sở Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Đức Minh của Thịnh ở đường Nguyễn Văn Cừ, Hà Nội và theo Thịnh là "cho A Giang gửi nhờ, không biết là hàng gì”.
Các ĐTV đã chỉ rõ cho Thịnh thấy rằng, trước hết, hợp đồng ngoại với doanh nghiệp của Tanzania (châu Phi) về việc mua "4.000 kg cá rô biển khô” vào thời điểm tháng 10/2004 là do Thịnh đại diện cho Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Đức Minh ký. Kế đó, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu hàng, y đã ký hợp đồng tái xuất APS-DN/01-2004 ngày 27/11/2004. Theo như hợp đồng tái xuất này thì người nhập khẩu lô hàng là Công ty Aquatic Product Supply Store, China; điều kiện giao hàng là DAF Móng Cái. Nếu theo đúng quy trình hải quan thì sau đó lô hàng buộc phải tái xuất khỏi Việt Nam và tại cửa khẩu xuất đi (cửa khẩu Móng Cái) lô hàng sẽ không phải kiểm hóa nữa. Tuy nhiên, trong thời gian đó, mặc dù hàng đã về đến Việt Nam, song Thịnh không hề mở tờ khai xuất hàng theo như hợp đồng mà đã ký kết và theo đúng quy trình của hàng hóa tạm nhập tái xuất.
Như vậy, rõ ràng Nguyễn Văn Thịnh đã không hề làm theo thủ tục tạm nhập tái xuất theo như quy định của pháp luật. Mặt khác, sau khi hàng được kiểm hóa ở Hải quan cảng Hải Phòng khu vực III và được cặp chì rồi, lái xe do Thịnh thuê đã chở container về gửi ở khu công nghiệp Phú Thị, Gia Lâm nhưng tại đây Thịnh đã cho tháo cặp chì hải quan mở hàng ra lấy ngà voi bỏ vào bao tải chở về trụ sở công ty mình nên không thể nói rằng "không biết, là hàng gì" được.
Theo Công An Nhân Dân, trong cuộc làm việc gần đây với Chi cục Hải quan cảng Hải Phòng khu vực III, ông Trần Ngọc Đảm, Chi cục trưởng cho biết kẹp chì hải quan dùng để cặp sau khi kiểm hóa là kẹp chì dây, trong khi đó lúc mà cơ quan Công an phát hiện kẹp chì vẫn cặp container của Thịnh tại khu công nghiệp Phú Thị là kẹp chì cối, một loại mà các chủ hàng có thể mua dễ dàng ở nhiều nơi với giá chỉ 10-15 nghìn đồng. Điều này chứng tỏ sau khi tháo kẹp chì hải quan rồi moi ngà voi, đồi mồi, mai rùa biển ra đem đi tẩu tán, Thịnh đã dùng loại kẹp chì cối mua trôi nổi ở ngoài cặp vào nhằm đánh lừa các cơ quan chức năng. Thịnh hoàn toàn không có ý định sẽ "tái xuất" lô hàng này ra nước thứ 3 như đã khai nhận ban đầu bởi với cặp chì đó, việc thông quan với lô hàng tạm nhập tái xuất là không hợp pháp. Một vấn đề nữa cũng đã được cơ quan điều tra đặt ra là nếu như hoàn toàn vô tình thì việc gì khi biết Công an khám trụ sở của mình và phát hiện ra có ngà voi, Thịnh lại bỏ trốn, mãi đến khi bị truy nã gắt gao mới chịu ra đầu thú.
Trước những lập luận sắc bén, chính xác, với rất nhiều bằng chứng rõ ràng của cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Thịnh đã nhận tội. Thịnh đã phải thừa nhận rằng, lô hàng đó là do mình mua đứt bán đoạn, việc ký hợp đồng tái xuất chỉ là cái cớ nhằm "qua mặt" cơ quan chức năng.